Vì sao càng có tâm cung kính càng có lợi trong việc học Phật?
Đại sư Ấn quang nói: “Cầu Phật pháp trong sự cung kính là một phần lợi ích; mười phần cung kính là mười phần lợi ích”.
Mọi người đều rất quen với câu nói này, nhưng rất ít người thực sự hiểu được ý nghĩa của “cung kính” và “cầu” pháp. “Cung” là “công tâm”, cùng với Phật cộng thành một tâm: hiểu rõ ý nghĩa của sự dạy dỗ của Đức Phật. “Cầu” là hàng phục “ngã mạn” (sự chướng ngại của tự ngã kiêu ngạo, hỗn xược), khai phát cái đức tốt đẹp của Phật tính, cũng là chủ động phát tâm cúi đầu, khiêm tốn thỉnh giáo, chứ không phải bắt bậc làm cao, chờ Đức Phật tới năn nỉ bạn học, thực ra Đức Phật đã hết miệng hết lòng năn nỉ chúng ta giác ngộ, năn nỉ đã rất lâu, Phật vẫn từ bi năn nỉ chúng ta học Phật, chớ dùng tâm mê vọng. Nhưng chúng ta bắt bậc làm cao, không hàng phục được sự ngu si, kiêu mạn của chính mình, không chịu cúi đầu nơi giác tính, cho nên không biết làm sao cho được.
Đức Phật là người khai ngộ chứng quả, Ngài rất từ bi, lại rất tự tại. Thực ra Ngài hoàn toàn không phải yêu cầu chúng ta cung kính Ngài, cho dù chúng ta không cung kính thậm chí còn thối nhục Ngài, thì đối với Ngài chẳng có chút ảnh hưởng gì, nhưng đối với bản thân chúng ta thì lại có ảnh hưởng vô cùng to lớn. Gọi là cầu Phật pháp trong sự cung kính, hoàn toàn không phải Đức Phật là quá lớn lao, khiến người ta phải cúi đầu, dập đầu mới chịu trao cho một ít Phật pháp. Cung kính cũng không phải đơn thuần là cung kính tượng Phật, kinh điển, mà là cung kính hết thảy chúng sanh, chân lý sự vật khi đối mặt với mọi hoàn cảnh thì có thể thể hiện Phật tâm sâu sắc, cùng với Phật chung một tâm – chung một tâm Bồ Đề giác ngộ, từ bi, đồng thời cùng với Phật một tâm nhu nhuyễn khiêm cung, giống như Đức Phật xưa kia đã cung kính xả thân cầu pháp, tự Ngài ở trong “sự” có thể cầu được “lý” của nó.
Giữ lòng cung kính thì dù ngày thường trong các việc đối nhân xử thế nhỏ nhặt, cũng có thể ngộ được Phật pháp. Nếu không giữ lòng cung kính thì dù có trãi qua ngàn “sự”, vẫn không thể ngộ được “lý” của Phật pháp trong đó, đời đời kiếp kiếp vẫn là người mê muội.
Có người cho rằng cầu trong sự cung kính là một loại phương pháp, thủ đoạn gián tiếp để cầu Phật pháp, chứ không biết “cầu trong cung kính” vốn là một phương pháp vi diệu để hàng phục phiền não ngã chấp một cách “trực tiếp” nhất, bản thân của nó là Phật pháp cao thâm, hoàn toàn không phải xuyên qua sự “cung kính cầu pháp” mà được Phật pháp gì. Do vì điều gây trở ngại cho việc thành Phật của chúng ta không phải là người nào khác, sự việc nào khác, mà chính là sự vọng tưởng, chấp trước của nội tâm chúng ta.
Điều này Đức Phật đã nêu ra khi ngài mới thành đạo. Cái căn bản nhất trong sự “chấp trước” chính là ngã chấp, sự mê muội trong các kiến giải, tư tưởng của tự ngã. Từ sự chấp trước tự ngã sản sinh ra: tham (ham muốn), sân (nóng giận), si (ngu muội), mạn (kiêu mạn), nghi (nghi ngờ), mà tự ngã bảo hộ, tự tư. Cho nên cầu Pháp trong sự cung kính chính là vượt ra khỏi những chấp trước ấy một cách trực tiếp.
Nếu không cung kính, không khiêm tốn mà cầu Phật pháp thì tất nhiên vẫn còn đám mây đen ngăn ngại của sự kiêu mạn, tự đại, tự ngã bảo hộ các thứ ngã chấp. Những đám mây đen này không phải làm chướng ngại người khác, mà làm chướng ngại cho sự khai mở Phật quang của chính mình.
Lời dạy “bao nhiêu phần cung kính thì được bấy nhiêu phần lợi ích” của Tổ Ấn Quang hoàn toàn không phải nói thông qua cung kính mà cầu pháp cho thật lâu ngày thì mới được lợi ích, mà chính là nói rằng, cung kính tức là ngay đó xóa bỏ đám mây đen ngã chấp, tất nhiên đồng thời tỏa chiếu Phật quang. Nếu xả bỏ hết đám mây đen của mười phần ngạo mạn, ngã chấp thì tự nhiên ngay đó tỏa ra được mười phần Phật quang. Đó là Phật Quang vốn có của tự tính, không phải cầu tìm bên ngoài. Bảo rằng cầu pháp trong sự cung kính, đương nhiên là cầu ở tự tâm mình cái phần năng lực có thể hàng phục ngã mạn, ngu si. Có cầu tự mình xuất phát phần tâm lực này thì mới biểu hiện được sự cung kính và sự cầu pháp. Bồ Tát giới “chân thành ở bên trong, hình thức ở bên ngoài” dạy chúng ta đối với Phật pháp khó hiểu thì phải quán sát cho chân chính, thừa nhận mình mù, không có mặt trí tuệ, dùng thái độ chính xác mà ngưỡng tin vào Phật, cung kính cầu pháp, học tập. Không tinh tiến học tập cũng là vi phạm tinh thần giới luật.
Có vẻ như niệm Phật thì rất dễ, nhưng nếu thiếu phần tâm lực “cầu trong sự cung kính” thì có thể làn sóng điện tâm niệm của sự phát xạ sẽ sai lạc rất lớn, không thể tiến nhập Phật đạo. Cũng như bắn tên thì không khó ở chỗ bắn ra mà khó ở chỗ trúng đích, chỉ cần nắm cung giữ tên mà sai, sai một hào ly, mất một ngàn dặm.
Trích Liên Hoa Hóa Sanh