Triết lý ứng xử với môi trường sinh thái theo quan điểm Phật Giáo (Phần 2)

Hành tinh của chúng ta có rất nhiều loại sinh vật khác nhau, mọi loài đều nương tựa vào nhau để tồn tại, cho nên chúng ta luôn có mặt cho nhau, chúng ta cần phải ôm lấy đất mẹ với tất cả trái tim của mình và dang rộng hai cánh tay để bảo vệ tất cả các loài sinh vật trên trái đất.

2.3. Phóng sinh ( Bảo vệ sinh mạng)

Phóng sinh (Tsethar) là một hành động và nghi lễ truyền thống trong Phật giáo chỉ về cách thực hành để cứu súc vật, chim chóc, cá khỏi bị giết hại hay giam nhốt. Phóng sinh thường được hiểu đơn giản là khi gặp một con vật bị nạn, thì ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, thì bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Phóng sinh là trao cho sinh vật nào đó cơ hội tiếp tục sống.

Theo quan niệm của Phật giáo, phóng sinh là cứu mạng người, kéo dài sự sống của họ hay sinh vật nào đó. Chuyện phóng sinh là thể hiện tâm từ bi của người thực hiện. Trong đạo Phật phát triển sau này, phóng sinh chỉ là một phương tiện để tu tập. Về mặt hình thức phóng sinh có nghĩa là mình đừng có cùm kẹp mà để cho các loài vật được tự do. Còn về nghĩa bóng, phóng sinh là phóng thích những cái tâm ô uế như cái tâm tham, cái tâm đố kị, hơn thua và thù hận ra khỏi con người mình để mình được tự do thoải mái.

Luận Đại Trí độ dạy rằng: “Trong tất cả các tội ác, tội sát sinh là nặng nhất. Trong tất cả các công đức, không giết hại là công đức lớn nhất.” Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ác nghiệp này có hình tướng thì cho đến cùng tận hư không cũng không dung chứa hết.” Chúng ta ngay trong kiếp này tạo nghiệp giết hại chúng sinh quả thật đã không thể tính đếm được, huống chi là đã tạo trong nhiều đời nhiều kiếp! Nên biết chân lý: “Có nợ phải trả, có tội phải báo.” Việc phóng sinh có thể trưởng dưỡng tấm lòng từ bi của mình. Nên khởi lòng bi mẫn phóng sinh, xem sinh mạng của loài vật như sinh mạng của chính mình. Thực hiện được điều ấy thì không tạo nghiệp giết hại nữa, không thiếu món nợ sát sinh nữa, nên chẳng phải luân hồi thọ báo nữa.

Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.

Đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Từ bi Toàn cầu tại Đại học California Irvine: “Chúng ta phải nỗ lực, ngay cả khi ngay cả khi thất bại, chúng ta cũng sẽ không có gì phải hối tiếc. Trên hết đây là vấn đề sinh tồn của loài người. Tôi nhớ những người bạn đã chia sẻ về một dòng sông chảy qua Stockholm, có thời gian dài không có loài cá nào sống ở đó được. Tuy nhiên, sau rất nhiều biện pháp thực hiện để giảm thiểu ô nhiễm của dòng sông, các loài cá đã xuất hiện trở lại ở đó. Chăm sóc hành tinh chính là chăm sóc ngôi nhà của chúng ta”

Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.

Công đức phóng sinh rộng lớn vô biên, có thể kể tới:

1.  Không có nạn đao binh, tránh được tai họa chiến tranh tàn sát.

2.  Sống lâu, mạnh khỏe, ít bệnh tật.

3.  Tránh được thiên tai, dịch họa, không gặp các tai nạn.

4.  Con cháu đông đúc, đời đời xương thạnh, nối dõi không ngừng.

5.  Chỗ mong cầu được toại nguyện.

6.  Công việc làm ăn phát triển, hưng thịnh, gặp nhiều thuận lợi.

7.  Hợp lòng trời, thuận tánh Phật, loài vật cảm ơn, chư Phật hoan hỷ.

8.  Giải trừ oán hận, các điều ác tiêu diệt, không lo buồn, sầu não.

9.  Vui hưởng an lành, quanh năm đều được an ổn.

10.   Tái sinh về cõi trời, hưởng phước vô cùng. Nếu có tu Tịnh độ thì được vãng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc.

Trong kinh Hoa nghiêm, phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện dạy rằng: “Chúng sinh thương yêu nhất là sinh mạng, chư Phật thương yêu nhất là chúng sinh. Cứu được thân mạng chúng sinh thì thành tựu được tâm nguyện của chư Phật.” Trong kinh Phật diệt độ hậu quan liệm táng tống có dạy rằng: “Nên giữ theo tâm từ, ban trải ân huệ đến muôn loài, xem thân mạng muôn loài chúng sinh như thân mạng của chính mình. Mở rộng lòng từ bi, dùng thân mình mà giúp an ổn cho muôn loài, tức là mở con đường hạnh phúc cho chúng sinh. Bảo hộ thân mạng muôn loài, thấm nhuần đến cả cỏ cây, khiến cho muôn loài đều không phải dứt tuyệt.”

Để ngăn ngừa việc sát sinh, đệ tử Phật khi lấy nước thì phải dùng túi lọc để lọc qua, đem sinh vật nhỏ bỏ vào trong đồ đựng riêng biệt, rồi sau thả chúng về với sông suối ao hồ, đây là một kiểu phóng sinh. Sau này, do nhu cầu cao, phóng sinh lại dẫn đến dịch vụ bắt và bán vật phóng sinh. Có người chuyên đi bắt và buôn bán các loại chim để thỏa mãn ý muốn phóng sanh của một số người. Kiểu phóng sinh này thực tế làm mất đi mọi ý nghĩa tích cực.

2.4 Tư tưởng từ bi bất hại

Bất hại (zh. bù hài 不害, ja. fugai, sa., pi. ahiṃsā), cũng gọi Bất sát sinh hay bất tổn sinh (zh. 不殺生, pi. pāṇāṭipātā paṭivirati, pāṇāṭipātā veramaṇī), là một trong những tư tưởng, giới luật quan trọng nhất của đạo Phật. Tư tưởng Bất hại lúc nào cũng giữ một vai trò quan trọng trong các tôn giáo Ấn Độ thời trước Phật Thích-ca nhưng Phật cùng với một vị giáo chủ ngoại đạo là Ni-kiền-tử Nhã-đề-tử (pi. nigaṇṭha nātaputta) là người đầu tiên hệ thống hoá và dùng lý thuyết tâm lý để chứng minh, lấy nó làm cơ bản cho tư tưởng này. Từ đó, tư tưởng bất hại đã trở thành một nguyên lý đạo đức vô song trong các tôn giáo Ấn Độ, đặc biệt trong tất cả các trường phái Phật giáo.

Về mặt tâm lý, đạo đức thì lý do chính vì sao mọi người nên thực hành đạo lý bất hại rất đơn giản: bởi vì ai cũng yêu quý cuộc sống của chính mình, không muốn bị hành hạ hoặc giết hại. Từ tình yêu thương chính mình, lấy đó suy ra hoàn cảnh của tất cả các loài khác kể cả hữu tình và vô tình, không kể là người hay là thú, là con voi hoặc con kiến, là cây cối hay ngọn cỏ, đặt mình vào trạng thái của chúng sinh, mọi vật và cảm nhận điều đó, người ta sẽ từ bỏ việc sát hại. Phật thuyết trong kinh Pháp cú (pi. dhammapada, 129): Hình phạt ai cũng sợ./ Mất mệnh, ai cũng khiếp./ Lấy ta suy ra người./ Chớ giết, chớ bảo giết

Như vậy, tư tưởng Bất hại xuất phát từ lòng bi (sa.,pi. karuṇā) và lòng từ (sa. maitrī, pi. mettā) đối với tất cả chúng sinh. Ai có lòng từ bi, người đó không bao giờ sát hại. Mặt khác, tư tưởng Bất hại cũng mang lợi ích, niềm vui cụ thể cho chính người thực hành, không chỉ là niềm “vui cùng với người” và niềm vui về việc đã thực hiện, một “hành động cao quý” nhất thời. Về mặt này thì đạo Phật có quan niệm không giống với những tôn giáo khác. Theo luật nhân quả (nghiệp, sa. karma) thì người làm lành, không giết hại sẽ gặp hạnh phúc và không bị hại. Từ đó người ta có thể suy ngược lại rằng, ai ôm ấp tư tưởng sát hại, không có lòng từ bi sẽ tự đưa mình đến những hoàn cảnh bất hạnh. Phật trình bày rất rõ trong kệ thứ năm và 225 của Pháp cú kinh

Hận thù diệt hận thù./ Đời này không thể có./ Từ bi diệt hận thù./ Là định luật nghìn thu./ Hiền sĩ không sát hại./ Điều phục thân mệnh hoài./ Đạt cảnh giới bất tử./ Giải thoát hết bi ai. Cũng vì những lý do nêu trên mà tăng ni trong phần lớn các tông phái Phật giáo cũng như nhiều Phật tử tại gia đều ăn chay. Bất hại cũng được xếp là một trong 10 Đại thiện địa pháp theo A-tì-đạt-ma-câu-xá luận, là một trong 10 Thiện tâm sở trong giáo lý của Du-già hành phái. Là tâm sở pháp không hãm hại loài khác. Theo giáo lý Duy thức, Bất hại chỉ là danh xưng giả lập từ tâm sở Vô sân (zh. 無瞋), nó sinh khởi tùy theo tác dụng của Vô sân.

Ứng dụng Từ Bi trước hiện trạng khủng hoảng môi trường

Từ tình yêu thương chính mình, lấy đó suy ra hoàn cảnh của tất cả các loài khác kể cả hữu tình và vô tình, không kể là người hay là thú, là con voi hoặc con kiến, là cây cối hay ngọn cỏ, đặt mình vào trạng thái của chúng sinh, mọi vật và cảm nhận điều đó, người ta sẽ từ bỏ việc sát hại.

Thế giới đầy dẫy những căm thù và bạo động. Chiến tranh là do chúng ta không nuôi dưỡng lòng từ bi. Ăn chay là một trong những phương pháp nuôi dưỡng lòng từ bi của chúng ta. Ăn chay là thực tập bất hại (non harming). Hại (harming) tức là làm hư hoại, tan nát, hại mình, hại người, hại thiên nhiên và những hình thái khác của sự sống xung quanh. Ăn chay là thực tập bất hại. Có người ăn chay chỉ vì muốn thêm sức khoẻ, vì sợ ăn chất béo. Nhưng trong khi ăn chay ta có thể nuôi dưỡng đức từ bi.

Ta quan sát thấy một con vật đang bị giết chết để làm thực phẩm, ta không chịu nổi. Ban đầu ta thấy đó là chuyện bình thường và không quá ghê gợn vì khi sinh ra và lớn lên ta đã thấy những cảnh tương tự như thế nên thành quen mắt, quen tai. Nhưng khi ta có đủ trí tuệ và lòng từ bi , ta suy nghĩ nếu bản thân ta cũng giống con vật đó, bị giết hại, bị cắt cổ rồi giãy giụa đau đớn như thế, thì trong ta thấy đau khổ, đau khổ trong tâm và cả thân mình. Vì vậy, khi ta chứng kiến những con gia súc bị giết mổ làm thức ăn, thấy máu, thấy sự quằn quại đau đớn của chúng, ta cảm thấy lòng mình bất an, thiếu an ổn và quặn lên sự đau xót. Nhiều người chứng kiến cảnh đó một lần thì phát nguyện ăn chay trường luôn.

Ngoài ra, chúng ta phải nhìn cây cối, sông nước, bầu không khí cũng cần phải được bảo vệ, vì tất cả đều có sự sống. Bất hại (ahimsa) là một đức rất lớn trong đạo Bụt. Khi chúng ta thiếu tâm bất hại, chúng kiến sự giết chóc và tàn hại đời sống mà không động lòng, thì chúng ta không có hạnh phúc, không có niềm an vui, an ổn . Không có tình thương thì không có hạnh phúc. Ngày xưa có một thi sĩ viết về bát canh thịt như sau:

Ngàn năm qua một bát canh

Oán sâu biển cả hận thành non cao

Muốn hay nguồn gốc binh đao

Lắng nghe quán thịt tiếng gào thâu đêm.

Chỉ cần nhìn vào trong bát canh và miếng thịt trong đó. ta sẽ thấy niềm oán hận của các loài bị tàn sát; nỗi oán hận này sâu như biển, lớn như núi. Nếu muốn biết được bản chất của chiến tranh ở trên thế giới, chỉ cần nửa đêm thức dậy lắng nghe tiếng gào thét của những con vật đang bị sát hại ở nhà đồ tể. Cho nên nếu có nhiều người thực tập ăn chay đàng hoàng thì chiến tranh sẽ giảm. Có rất nhiều nhà chính trị, kinh tế và khoa học đang nghiên cứu cách thức làm giảm bớt chiến tranh. Nhưng chúng ta phải biết rằng chiến tranh chỉ có thể giảm bớt khi tâm từ của chúng ta phát triển. Ăn chay để tâm từ bi và tâm bất hại phát triển trong lòng từ trẻ em đến người lớn, tốt hơn nữa là tâm từ bi này nảy mầm từ khi còn là bào thai, được ươm trong lòng cha mẹ ăn chay, niệm Phật và có tâm từ bi bất hại, thì đứa bé đã sớm được tiếp nhận giáo dục tình yêu thương, đó là một trong những phương pháp hay nhất để mang lại hoà bình.

Tôi nằm hấp hối

Trên mạn thuyền

Em phải giết tôi

Vì mạng sống của em

Có người nói rằng: “Trời sinh con cá để cho người ăn, tại sao không ăn? Người ta sẽ hỏi lại: Trời sinh con người để làm thức ăn cho vi trùng, hay cọp beo, tại sao không để cho vi trùng hay cọp beo ăn?”

2.5 Tinh thần vô ngã vị tha

Một chân lý hiển nhiên đã được kiểm chứng thực nghiệm là ai đang đi trên lộ trình hướng đến “Vô ngã” thì người đó sẽ dần đạt đến cảnh giới hạnh phúc, an vui và giải thoát. Ngược lại, ai đang đi trên con đường hướng đến “Chấp ngã” ích kỷ thì chắc chắn rằng người ấy lún dần vào hố sâu nguy hiểm của sự khổ đau triền miên bất tận.

Vô ngã là một phần rất quan trọng trong giáo nghĩa cơ bản của Phật giáo, là một trong Tam pháp ấn (Vô thường, Vô ngã, Niết bàn). Vô ngã quán cũng gọi Giới phân biệt quán là pháp quán tưởng thân người do sáu thứ: đất, nước, gió, lửa, không, thức giả hợp thành, không phải thật có để xả bỏ ngã chấp thuộc Ngũ đình tâm quán (Bất tịnh, Từ bi, Duyên khởi, Giới phân biệt, Sổ tức). Hiểu sâu và thực hành đúng triết lý Vô ngã là con đường tất yếu đưa chúng ta vượt qua biển khổ sống mê đến bến bờ an lạc, hạnh phúc.“Vô ngã nghĩa là không có cái ta chắc thật. Ngã là vĩnh viễn bất biến (thường), tồn tại độc lập, sở hữu chủ trung tâm (chủ), có năng lực chi phối, là sự thật có của linh hồn hoặc bản thể. Chủ trương tất cả sự tồn tại không có cái Ngã như thế mà nói Vô Ngã, gọi là Chư pháp vô ngã”

Thể hiện pháp vị tha vô ngã trong thời hiện đại đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống của muôn loài và cũng là thiết thực bảo vệ sự sống của chính mình.

Thể hiện pháp vị tha vô ngã trong thời hiện đại đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống của muôn loài và cũng là thiết thực bảo vệ sự sống của chính mình

Đối sách giải quyết vấn đề môi trường

Trên căn bản quán nhân duyên đúng như thật, Đức Phật nhận thấy giữa Ngài và các loài có mối tương quan tương duyên cộng tồn rất mật thiết và sự hiện hữu tốt hay xấu đều do mình quyết định. Vì vậy, Phật quyết định xây dựng con người vì muôn loài, nói cách khác, xây dựng người là xây dựng mình, cứu giúp người chính là cứu giúp mình. Lo cho chúng sanh tốt, trong đó có mình cũng được hưởng sự tốt đẹp; đó chính là ý nghĩa đúng đắn của vị tha vô ngã. Ngày nay loài người khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm trái đất này bị ô nhiễm gây ra nhiều bệnh trầm trọng và rút ngắn thọ mạng của con người. Vì mục đích vị kỷ, chỉ muốn làm giàu cho bản thân, nhiều người đã hủy hoại môi trường sống, trong đó có sự sống của họ tất yếu cũng không thể thoát khỏi tác động xấu. Thiết nghĩ thể hiện pháp vị tha vô ngã trong thời hiện đại đồng nghĩa với bảo vệ môi trường sống của muôn loài và cũng là thiết thực bảo vệ sự sống của chính mình.

Tóm lại, tinh thần “Vô ngã vị tha” là nét nhân cách độc đáo và xuyên suốt của những người con Phật giáo trong Phật giáo Việt Nam, và có lẽ cũng là nét nhân cách mà con người trong xã hội hiện đại cần hướng tới, nhằm mục đích xây dựng một xã hội Chân- Thiện- Mỹ với cuộc sống an vui hạnh phúc thật sự.

2.6 Triết lý duyên khởi: Cơ sở của quan điểm bảo vệ môi trường sinh thái

Trong khi tất cả chúng ta đang khủng hoảng trong việc tìm kiếm một giải pháp cho công cuộc bảo vệ môi sinh thì đức Phật đã dạy bài học này từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước trong bài pháp Duyên Khởi: không có sự tồn tại độc tôn giữa người với người, giữa người với động vật, giữa người với môi sinh. Vậy thì con người không được phép giết hại lẫn nhau bằng súng đạn chiến tranh, giết hại thú vật và phá hoại cây cối.

Nguyên lý Duyên khởi của Phật giáo : Khi cái này có thì cái kia có; Khi cái này hiện, cái kia hiện; Khi cái này không, cái kia không; Khi cái này mất, cái kia mất) . Học thuyết Duyên khởi của Phật giáo chỉ ra rằng con người là tập hợp 5 uẩn : sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Trong đó, sắc uẩn của một người bao gồm thân vật lý của người ấy và toàn thể thế giới vật lý. Điều đó có nghĩa thiên nhiên thực sự là cơ thể của con người, chính xác là một phần rất lớn của cơ thể con người. Con người không thể tồn tại được nếu không có môi trường. Nếu môi trường hay thiên nhiên bị ô nhiễm trầm trọng thì cơ thể vật lý của con người, hay đời sống của con người cũng bị hủy diệt.

Vạn pháp tương duyên, tương sinh với nhau và các mối liên hệ với con người rất quan trọng trong bối cảnh xã hội. Phật giáo Đại thừa xem tất cả vạn pháp là sự hiển thị của Phật tính, vạn pháp đều có Phật tính. Vạn pháp này không chỉ bao gồm loài vật hữu tình mà cũng bao gồm thực vật, vật vô cơ không có tình cảm ý thức. Tuy vậy, tương quan giữa con người với các phương diện sinh thái cũng đóng vai trò chính yếu cho sự tồn tại của loài người.Tất cả các loài có sự sống và không có sự sống trong thiên nhiên đều có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chúng hỗ trợ, giúp đỡ nhau để sinh tồn lâu dài hơn. Mỗi cá thể nhân loại có liên hệ với nhau, với các loài động thực vật cũng như với toàn hệ sinh thái. Dù cho các mối liên hệ này ở tầm vĩ mô hay tầm vi mô, nó vẫn hiện hữu. Vì vậy, để hiểu được vũ trụ và sự liên kết phức tạp trong mạng lưới của nó, chúng ta cần phải nhìn vào bên trong chính mình để nhận thức tiềm năng và bản thân chúng ta trước. Kiến thức về vũ trụ và các mối quan hệ phức tạp của nó có thể cơ bản giúp thay đổi thái độ hành xử của con người chúng ta đối với thiên nhiên. Ngay trong việc thực tập tu tập theo đạo Phật, lòng trắc ẩn chính là một thể hiện về quan điểm đối với môi trường. Do vậy, lời dạy của Đức Phật có thể được sử dụng để khai sáng cho loài người về sự đồng sinh tồn, không thể chia tách giữa con người và thiên nhiên.

Chúng ta cần phải ôm lấy đất mẹ với tất cả trái tim của mình và dang rộng hai cánh tay để bảo vệ tất cả các loài sinh vật trên trái đất.

Chúng ta cần phải ôm lấy đất mẹ với tất cả trái tim của mình và dang rộng hai cánh tay để bảo vệ tất cả các loài sinh vật trên trái đất

Hủy hoại thiên nhiên đồng nghĩa với với hủy hoại môi trường sống

Hữu tình – vô tình đều bình đẳng với nhau, vì thế cần có thái độ phù hợp bình đẳng, không quá coi trọng loài hữu tình mà xem nhẹ loài vô tình. “Loài vô tình có tính giác” và cần yêu quý thiên nhiên, đây là tinh thần cơ bản của quan điểm về thiên nhiên của Phật giáo. “Không chỉ tất cả chúng sinh hữu tình mà ngay cả các loại vô tình như cỏ cây, gạch đá cũng có Phật tính”.“Một hạt bụi có đủ Phật tính của tất cả chúng sinh, cũng có đủ Phật tính của chư Phật trong mười phương”. Đại sư Trạm Nhiên (711-782) của Thiên Thai Tông định nghĩa rõ ràng: Loài vô tình có tính giác là chỉ sông núi, đất đai, gạch đá v.v…không có tình cảm ý thức đều có Phật tính. Thiền Tông còn nhấn mạnh hơn “Hoa vàng thơm ngát không gì chẳng phải là Bát-nhã, trúc biết xanh tươi há lại chẳng phải là Pháp thân?”. Một cọng cỏ, một thân cây trong đại tự nhiên đều là sự biểu lộ của Phật tính, đều có giá trị tồn tại của nó. Dựa trên nguyên lý này, làm thanh tịnh quốc độ, yêu quý thiên nhiên chính là sứ mạng về thiên nhiên của Phật giáo. Sư Trạm Nhiên đã viết trong Kim Cương Ty như sau: “Thuyết Tùy duyên bất biến được rút ra từ Đại giáo, lời nói cỏ đá vô tình phát sanh Tiểu tông”. Tùy duyên bất biến là nói bản thân Phật tính, đều có giá trị bình đẳng. Đây là lý luận của Phật giáo Đại thừa. “Đại địa luân lý học thay đổi địa vị của nhân loại là từ chinh phục trái đất-xã hội chuyển thành một thành viên và công dân bình thường trong đó”. Điều này có nghĩa là nhân loại phải tôn trọng các sinh vật bạn bè khác và cũng dùng thái độ bạn bè tôn trọng xã hội, đại địa. Hành vi con người phải có lợi ích cho sự cộng tồn của vạn vật.

Triết học gia môi trường người Mỹ, Holmes Rolston là người kế thừa Đại địa luân lý học của Aldo Leopold, ông ta chỉ ra: “Một loài (sinh vật) trong môi trường nó sinh ra và lớn lên trở thành chỗ của nó. Luân lý học môi trường phải phát triển thành Đại địa luân lý học, phải có sự tôn trọng thích đáng với tất cả cộng đồng sinh vật có quan hệ mật thiết của các thành viên. Chúng ta phải quan tâm hệ thống sinh thái của đơn vị sinh tồn cơ bản này”. Theo lý tương tức thì chúng sanh được làm bởi những yếu tố không phải chúng sanh. Nhìn vào bản thân mình, ta sẽ thấy có cả khoáng vật và nhiều yếu tố không- phải- chúng-sanh khác. Như vậy thì tại sao ta lại phân biệt ta và những cái mà ta gọi là vô tri giác? Để bảo vệ tất cả các chúng sanh, ta phải bảo vệ cả đất đá, sông hồ và đại dương. Con người và thiên nhiên không thể tách rời nhau ta nên đối xử với thiên nhiên như đối xử với chính bản thân mình, với tất cả sự cẩn trọng nhẹ nhàng, với tất cả tình thương yêu như yêu thương chính bản thân ta vậy. Nếu chúng ta không muốn bị bệnh tật, bị đau khổ, vì thương tổn, bất an thì ta cũng không làm thương tổn tới thiên nhiên. Toàn thể vũ trụ và vạn vật trong đó đều có tính tôn nghiêm, nó là sự tồn tại trên loại ý nghĩa này. Nói cách khác, vật vô sinh và vật vô cơ của giới tự nhiên cũng đều có tính tôn nghiêm. Đất đai, không khí, nước, nham thạch, suối, sông, biển…. tất cả các vật này đều có tính tôn nghiêm. Nếu con người xâm phạm tính tôn nghiêm của nó chính là xâm phạm tính tôn nghiêm của chính chúng ta

Hành tinh của chúng ta có rất nhiều loại sinh vật khác nhau, mọi loài đều nương tựa vào nhau để giúp nhau tồn tại, cho nên chúng ta luôn có mặt cho nhau, chúng ta cần phải ôm lấy đất mẹ với tất cả trái tim của mình và dang rộng hai cánh tay để bảo vệ tất cả các loài sinh vật trên trái đất.

Tình dữ vô tình đồng thành Phật đạo, vô tình chúng sinh chỉ cho cây cỏ, rừng núi. Một câu chuyện bao hàm Sinh thái quan của Thiền tông để cùng suy ngẫm: Có một vị Hòa thượng biết được một vị Thiền sư ngộ đạo sống một mình bên bờ một con sông, vì thế quyết định đến tham vấn. Trải qua vài tháng trèo đèo vượt suối, cuối cùng ông cũng đến được bên bờ sông gần nơi vị Thiền sư ở. Lúc đó, vị Hòa thượng này bỗng thấy một lá cây rất đẹp từ am tranh nơi vị Thiền sư rơi xuống trôi lênh đênh trên dòng nước, ông vô cùng thất vọng, đang lúc muốn bỏ đi thì thấy vị Thiền sư chạy dọc theo dòng sông, đuổi theo chiếc lá đó, cuối cùng vớt được nó lên và mang về am tranh. Vị hòa thượng này thấy vậy rất vui, tự nghĩ mình đã tìm được một vị Chân sư.

Khi ta muốn bảo vệ môi trường sinh môi, trước tiên ta phải chăm sóc chính mình, làm cho bản thân ta mạnh hơn, mạnh về nội tâm, khi đủ mạnh rồi ta sẽ không còn lo lắng, bất an. Một cá nhân biết chăm sóc chính mình, khi nhiều cá nhân cũng biết chăm sóc chính họ, vậy chúng ta được một tập thể biết chăm sóc những nguồn năng lượng tốt đẹp ấy. Khi càng nhiều năng lượng cá thể tốt, người ta sẽ hạn chế dần sự độc chiếm, sự tàn phá, sự hủy hoại thế giới xung quang, trong đó có cả môi trường thiên nhiên.

Thiền sư Nhất Hạnh đã nhắc nhở cho chúng ta nhớ rằng mình đã từng là đá, là mây, là cây lá. “Con người là sinh vật mới xuất hiện gần đây thôi. Chúng ta nên nhớ lại nguồn gốc xa xôi của mình, để biết khiêm tốn hơn”. Mỗi sáng, khi ta tiếp xúc với một ly trà, cầm ly trà trên tay, khứu giác ta thấy ly trà này rất thơm, mạc giác ta cảm nhận thấy hơi ấm từ ly trà lan tỏa vào tay ta. Nhưng nhìn sâu vào ly trà, là có cả một thế giới, ta thấy được nụ non trà mới nhú, thấy được bầu trời nhiều mây, những cơn mưa nuôi dưỡng đất để cây trà phát triển, thấy được cả những giọt mồ hôi của người nông dân…Có cái nhìn sâu trong chánh niệm như thế, ta mới biết ta không chỉ có ly trà mà ta có cả thế giới, có như vậy ta mới biết trân quý thế giới xung quanh ta, cả thế giới hữu hình và vô hình. Có là một ly trà, một cây cỏ hay một lạt lúa đều chứa đựng cả thế giới.

3. LỜI TẠM KẾT

Chúng ta còn là một bào thai trong bụng mẹ hay sinh ra đời với mọi phức cảm hớn hở, chúng ta phải dựa vào người khác đặc biệt là mẹ để có những tiếng nói bập bẹ bước chân bé nhỏ đầu tiên. Sự tồn tại và phát triển của một cá nhân phụ thuộc vào một cộng đồng. Cộng đồng là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì vậy chúng ta phải chăm sóc cộng đồng đó.

Hãy cùng cộng đồng nỗ lực không ngừng để bảo hộ đất mẹ, nhìn sâu vào những điều xảy ra trong quá khứ, nhìn sâu vào những gì đang có ở hiện tại để nguyện mỗi giây phút này chúng ta sẽ tư duy và hành động vì nhân loại, vì thế giới bảo vệ môi trường sinh thái và đó cũng là vì bảo vệ sự sống của chính chúng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Bùi Vạn Trân, Bùi Thị Trà Giang, (2018) Cơ sở môi trường sinh thái, Nxb Tài nguyên môi trường & bản đồ Việt Nam.

2.  Charles Darwin, Orkid dịch (2019), Nguồn gốc muôn loài, Nxb Tri Thức.

3.  Joanthan landaw, Thích Chân Tính dịch, (2012) Lược truyện Đức Phật Thích Ca, Nxb Tổng hợp TPHCM.

4.  Thích Nhất Hạnh, (2005), Đường xưa mây trắng, Nxb Tôn giáo.

5.  Thích Nhất Hạnh, (2018), Không diệt không sinh đừng sợ hãi, Nxb Hội Nhà Văn.

6.   Thích Nhất Hạnh, Chân Hội Nghiêm chuyển ngữ, (2020), Hướng đi của đạo Bụt cho hòa bình và sinh môi, Nxb Lao động.

7.   Thích Hạnh Tuệ (2019), Văn học Phật giáo Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb Khoa học Xã hội.

8.  Thích Hạnh Tuệ (2018), Hạnh phúc Minh Trần, Nxb Lao động.

9.  Thích Thanh Kiểm (2003), Khóa hư lục, Nxb Tôn giáo.

10.   Thích Phụng Sơn (2003), Những nét văn hóa của Đạo Phật. Nxb Tôn giáo.

11.   Thích Nguyên Hiệp, Đạo đức học Phật giáo và vấn đề môi trường. Thư viện Hoa Sen. Tải xuống ngày 27 tháng 10, 2015. https://dieungu.org/a14074/dao-duc-hoc-phat-giao- va-van-de-moi-truong-thich-nguyen-hiep

12.   Thích Tâm Pháp, Phật giáo và Môi trường trong Tuyển tập Phật Thành Đạo. Nhiều tác giả, ở Phần III. Tải xuống ngày 20 tháng 10, 2015. http://www.tuvienquangduc.com.au/DucPhat/40td-tamphap.html

13.   Thích Trí Siêu ( 2008), Xin cứu độ Đất mẹ, Nxb Phương Đông.

14.   Tuệ Sỹ (2020), Duy ma cật sở thuyết, Nxb Phương Đông

15.   Nguyễn Thị Ngọc, 2019. Chính sách bảo vệ môi trường của một số nước Châu Âu và gợi mở cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội

16.   Ngô Thế Vinh ( 2009), Cửu Long cạn dòng Biển Đông dậy sóng, Nxb Văn nghệ mới

17.   Vũ Quang Mạnh ( 2011), Môi trường và con người sinh thái học nhân văn, Nxb Đại học sư phạm

18.   Evrlyne Blau, Vũ Toàn dịch,( 2007), Thiền, Nxb Lao động