Tịnh độ tông: Những kiến thức dễ hiểu nhất
Tịnh độ tông là một trong nhiều pháp môn của Phật dễ tu dễ chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào cũng có thể tu hành được cả.
Tịnh độ tông thuộc về Đại thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được cảnh vãng sanh về Tịnh độ của Phật A Di Đà. Do đó, tông này mới có tên là Tịnh độ tông.
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, củng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẵng, rộng rãi, mát mẻ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
Bởi những lẻ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt Nam chúng ta, ngày xưa củng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn này. Đó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu “Con đường tu thứ hai” trong mười tôn phái của Phật giáo.
Duyên khởi lập tông
Tịnh độ căn cứ vào những kinh điền gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Đó là các bộ:
Kinh Quán Vô Lượng Thọ: Kinh này chép rõ 16 pháp quán và 9 phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
Kinh Tiểu Bổn A-Di-Dà: Kinh này lược tả cõi tiên giới Cực Lạc, trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn ”trì dân niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là ”ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn có các kinh khác như:
Kinh Bửu tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh Phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn ”trì dân niệm Phật” để cầu sanh về Thế giới Cực lạc.
Kinh đại bổn A-Di-Dà, Kinh Thập Lục Quán, kinh Ban châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa Nghiêm…
Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Đông-tấn nhờ Ngài Huệ Viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Đàm loan, ngài Đạo Xước, ngài Thiện-đạo.v.v.. đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
Bốn cõi Tịnh độ
Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Đứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:
1. Thường tịch quang Tịnh độ: đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. ”Thường” là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; ”Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; ”Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
Cảnh Tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác ”thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là ”Thường tịnh quang Tịnh độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thanh và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại Tịnh độ sau đây mà gọi là có Thân, có Độ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là ”Pháp Thân”, còn về độ, thì gọi là ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
Kinh Tinh danh, về lời sớ có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi ”Thường tịch quang Tịnh độ”.
2. Thất báo trang nghiêm Tịnh độ: hành giả trải qua ba số kiếp tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật nên gọi là ”Thật báo trang nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán Vô Lượng Thọ về lời sớ có chép: ”Tu tập chơn thật”, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là ”Thật báo trang nghiêm”. Bên Đại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên ngoài Đại thừa Biệt-giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Đẳng giác Bồ Tát.
3. Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Đây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc trong ba cõi (Dục-giới, Sắc giới và Vô-sắc-giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là ”hữu-dư ”. Đã là ”hữu-dư ” tức là chưa phải hoàn toàn cứu-cánh, nên gọi là cõi Tịnh độ này là ” Phương-tiện hữu-dư Tịnh độ”.
4. Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Đây tức là cõi Tịnh độ của Đưc Phật A Di Đà ở Tây Phương. Đã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tuy nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang nghiêm, không có bón ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ Tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là ”Phàm thánh đồng cư Tịnh độ ”.
Vì phần đông tín đồ Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A-Di-Đà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh ”Tiểu bổn A-Di-Đà” thuật lại lời Đức Phật Thích Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: ”…Từ cõi Ta bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Vị Giáo chủ ở Thế giới ấy là Phật A-Di-đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có 7 lớp câu lơn (tường-hoa) bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Đáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Cảnh giới Cực lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Dà (1) là vị giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành chữ A-Di-Dà người Trung Hoa dịch là ”Vô lượng thọ”, hay ”Vô lượng quang”, nghĩa là đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chiếu sáng cũng không lường.
(1) Chữ A-Di-Đà, người Trung Hoa dịch là “vô lượng thọ” hay “vô lượng quang”, nghĩa là Đức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường.
Ba yếu tố để cầu sanh Tịnh độ
Muốn được vãng sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư luơng (Lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món ăn nào, hành giả củng không thể tu hành có kết quả được.
1. Thế nào là ”tín”?
– Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được Đức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: ”Tín là mệ sanh ra các công đức”. Nhờ đức tin mà quả Bồ đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sang thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng đó là lòng từ bi muốn cứu khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo người mà được chúng sanh vãng sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của Đức Phật Thích Ca không hư đối, Đức Phật A Di Đà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp-môn này. Tin rằng nếu mình thực-hành đúng như lời Phật Thích Ca đã chỉ dạy trong kinh A Di Đà, chuyên trì danh hiệu Phật A Di Đà cho đến ”nhất tâm bất loạn” thì khi lâm chung chắc chắn thế nào mình củng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2. Thế nào là ”nguyện”?
Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, àl cái chong chóng của máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đạt mục đích.
Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Đà.
Để có một ý niệm về chữ ”nguyện”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Đà, khi còn làm Pháp tạng Tỳ Kheo:
– ”Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp ”.
– ”Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới phát tâm Bồ Đề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, gia như ta không cùng với đại chúng đang vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh giác ”.
– “Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu khôngđược thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh giác ”.
3. Thế nào là ”Hành”?
– Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ ước ao, mong muốn ảo huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế “Tín, Nguyện, Hành” ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đúng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
Phương pháp tu về Tịnh độ
Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rỏ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ít phương phát sau đây:
Trì danh niệm Phật: Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì-niệm danh hiệu của Phật A-Di-Đà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải chớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngủ, hành-giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn có hiệu quả hơn, hành-giả cần phải xem phương pháp ”Kinh hành niẹm Phật ” (xem nghi thức kinh hành niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hương cầu sanh Tịnh độ.
Tham cứu niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả phải tham khảo cứu xét suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm ”Nam mô A-Di-Đà Đà Phật”, hành giả phải quán sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là niệm ai..? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng tưởng dần dần chìm lặng, nước hiện tâm hiện bày, hành-giả được ”nhất tâm bất loạn”, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu ‘thoại đầu ”bên Thiền tông, nên gọi là ”tham cứu niệm Phật”.
Quán tướng niệm Phật: Trong lối tu này, hành-giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.
Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh si của hành-giả phai dần; nhờ quán từ-bi của Phật mà tánh Sanh của hành-giả bớt dần…Hễ quán thêm một đức tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành-giả được bớt đi. Tánh của Đức Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành-giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh.
Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ-bi, hỷ-xả, bình-đẳng, lợi tha được huân tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành-giả sẽ thanh tịch, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật.
Quán tưởng niệm Phật:
Trong lối tu này, hành-giả ngồi yen một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành-giả quán tưởng như có Đức Phật A Di Đà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành-giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, củng tưởng mình ngồi trên tòa sen, được Phật tiếp dẫn. Hành-giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi củng không dừng nghĩ, cho đếnkhi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành-giả chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.
Trong kinh Quán Phật tam muội chép rằng: ‘Phật vì Phụ vương, nói pháp quán tưởng bạch hào …”. Quán tưởng bạch hào nghĩa là quán tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Đây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
Thật tướng niệm Phật:
Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là”thật tướng “.
Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm (thật tướngniệm Phật) là thuộc về lý: không còn, niệm còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự, Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bi thử, không hữu, khong vô. Đến chỗ này, kinh Di-Đà gọi là”được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhi chương chép; “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.
Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn danh trì, là một pháp môndễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, củng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
Lợi ích của pháp niệm Phật
Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về sự và lợi ích về l ý.
1. Lợi ích về sự:
Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não: Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường…sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chát thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nhgĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Để mà nhớ Phật thay thế cho cái nhớ sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ gỉam đi chừng ấy. Cho nen cổ nhân có câu “Một câu niệm Phật giải oan khiên”.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật nảy chi cho một số người sầu khổ gần như điên cuồng, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp.
Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn: Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được, ngủ yên và bệnh mau bình phục.
Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ:
Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được. Nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.
Niệm Phật, khi lâm chúng sẽ được sanh về Tịnh độ: Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến “nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ, được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật.
2. Lợi ích về lý:
Khi hành giả niệm Phật được “nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là “Thường”, chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là “Tịch”, chơn tâm sáng suốt vô cùng là “quang cảnh thường tịch quang Tịnh độ” chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không nơi đâu khác.
Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là “Phật Vô-lượng-thọ”; chơn tâm chiếu soi vô tận là “Phật Vô-lượng-quang” và đó cũng tức là “Thanh tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Đà”.
Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép: “Tự tánh Di-Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Đà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.
Sự quy ngưỡng và cầu sanh Tịnh độ của các vị Bồ Tát và Tổ sư
Chúng ta đừng tưởng rằng Pháp môn Tịnh độ là một Pháp môn tầm thường, giản dị chỉ dành riêng cho những người căn trí thấp thỏi, hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù Pháp môn này không đòi hỏi hành giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tổ sư đã được thực hành pháp môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng phát nguyện sanh về nước Cực lạc của Phật A-Di-Đà như sau:
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thế chư chướng – ngại
Diện kiến bị Phật A-Di-Đà
Tức đắc vãng sanh an lạc sát.
(Tôi nguyện đến khi lâm chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Đà, liền được vãng sanh về cõi Cực lạc).
Các vị Bồ tát như Ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Đại Thế Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ.
Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như Ngài Thiên Thân, tổ của Duy thức tôn; Ngài Trí giả đại- sư, tổ của ThiênThai tôn; Ngài Hiền thủ, tổ của Hoa nghiêm tôn; Ngài Nguyên Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; Ngài Mã Minh, Long Thọ, tổ của Thiền tông…cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ.
Sau nữa, các vị Đại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như Ngài Đàm Loan, Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện đạo, Ngài Thừa Viễn, Ngài Pháp Chiếu, Ngài Thiếu Khương, Ngài Tĩnh Am…đều dùng pháp môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
Chúng ta đã biết qua tôn chỉ, đặc điểm phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh độ tông. Đến đây chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chừ gì nữa, hãy hạ thủ công phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh tấn thực hành các phương pháp niệm Phật.
Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ ”Nhất tâm bất loạn”.
*Trích “Phật Học Phổ Thông”; tác giả: Hòa thượng Thích Thiện Hoa.
HT. Thích Thiện Hoa