Thời gian tu tập hành trì (Phần 1)

Về mặt từ ngữ, Tu tập và Hành trì là những tiếng ghép đôi gồm có hai tiếng đơn. Mỗi tiếng đơn có một nghĩa chính xác khác nhau, người thiện học cần hiểu tường tận nội dung từng tiếng đơn ngõ hầu giúp cho sự thăng tiến trên đường đạo được vững chắc và đúng hướng hơn.

Liễu nghĩa từng tiếng đơn như sau:

TU là sửa chữa cho được hoàn hảo, trọn vẹn như ý nguyện. Khi có quyết định sửa chữa, tất nhiên là đã xác nhận có sự sai lầm hay thiếu sót. Tu chính là sửa chữa chỗ sai lầm cho ngay, cho đúng. Tu bổ là thêm vào chỗ thiếu sót cho đầy đủ, hoàn hảo. Tu chứng là thực hiện cho đạt được kết quả cụ thể như ý.

TẬP là làm nhiều lần cho quen một điều gì đã quyết tâm thực hiện cho đến lúc đạt được kết quả như ý, không nhất thiết là điều lành hay điều dữ. Tập quán là thói quen làm nhiều lần một điều gì đã trở thành nếp sống trong sinh hoạt hằng ngày. Tập tục là thói quen có từ lâu đời trong nếp sống của người dân tại một vùng, một nước. Tập luyện là làm nhiều lần để trở nên thành thạo.

HÀNH là việc làm đem ra ứng dụng trong thực tế như hành động, hành vi, hành quân… Trong Phật học, HÀNH có hai nghĩa chính:

Chuyển hóa từ ý nghiệp hay khẩu nghiệp thành ra thân nghiệp, hiển lộ ở động tác hữu vi của thân thể, tay chân. Hành thiện là làm điều lành. Hành hung là dùng sức mạnh đánh người khác. Hành chánh là đem điều hay lẽ phải ra ứng dụng trong việc trị quốc an dân.

Người thật sự tu hành là người như thế nào?

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Thực hiện đạo hạnh, ứng dụng giáo lý trong sinh hoạt thực tế. Hành đạo là ứng dụng đạo học vào đời sống thực tế. Hành giả là người thực hiện đạo hạnh. Hành khất là người đi xin của bố thí.

TRÌ là nằm giữ, không buông bỏ hay để gián đoạn. Trì giới là giữ gìn làm theo điều răn cấm, không lúc nào sao nhãng. Trì kinh là luôn luôn nhớ lời kinh và làm theo lời Phật dạy. Tu trì là luôn luôn thực hiện sự sửa mình theo chính đạo.

Về mặt ứng dụng trong nếp sống thực tế, người thiện học quán càng sâu càng hiểu kỳ diệu ý của bốn tiếng đơn trình bày ở trên có mối tương quan liên hệ mật thiết với nhau. Sự dẫn giải như sau:

Bốn tiếng đơn có liễu nghĩa khác nhau có thể hợp thành một mô thức gồm bốn sự việc liên tục TU-TẬP- HÀNH TRÌ: Đã quyết tâm Tu thì phải Tập, đã gọi là Tập thì phải Hành, đem ứng dụng trong thực tế để đạt được kết quả cụ thể xem tốt hay xấu, nên tiếp tục hay ngừng lại; đã Hành thì phải Trì nghĩa là thực hiện liên tục, không có bỏ dở nửa chừng, Phật học gọi là Tu trì miên mật hay Hành trì miền mật.

Mô thức gồm bốn tiếng đơn có thể rút gọn thành mô thức gồm hai tiếng ghép đôi TU TẬP-HÀNH TRÌ. Lý do: Tu thì phải Tập, nếu không Tập thì không phải là TU mà là trang bị một lý thuyết suông, trở nên giỏi về lý luận (bàn cãi mà chơi cho vui) không đem lại ích lợi gì cho tự thân và tha nhân; Hành thì phải Trì, nếu không Trì thì Hành nhất thời chỉ uổng công phí sức vì không đem lại lợi ích lâu dài thiết thực giống như Tu mà không Tập.

Mô thức gồm hai tiếng ghép đôi có thể rút ngắn hơn nữa thành mô thức chỉ còn một tiếng ghép đôi TU HÀNH. Lý do: Tu thì phải Hành, Tu để trở nên hành giả mà không phải để trở nên học giả, cần thực chứng hơn là lý giải.

Mô thức còn một tiếng ghép đôi lại có thể có đọng lại thành mô thức chỉ còn một tiếng đơn HÀNH. Lý do: Có Hành mới có Chứng Ngộ, đạt được cứu cánh là Giải Thoát, Tự giác tự độ và Giác tha độ tha.

Tóm lại, Bốn rút lại thu về thành Một, Một khai triển ra thành Bốn. Điều này chứng tỏ đạo Phật vừa có phần lý giải uyên bác, khúc triết vừa có phần thực nghiệm ứng dụng vào đời sống nhân sinh. Đây chính là lý Duyên Sinh (1).

(còn tiếp).

Bảo Thông