Thiền (10)

Để đối chứng, kiểm chứng loạt 9 bài về “Thiền” của tác giả Kỳ Nam, bài này chúng tôi xin trích đăng nguyên văn bài của Ngài Trưởng lão Thích Thông Lạc với tựa đề “Tà Thiền Vô Sắc & Chánh Thiền Hữu Sắc”.

00

Thiền (9)

Ở đây điều cần làm là sáng tỏ hai loại thiền mà Đức Phật đều đã trải qua mà Thiền hữu sắc mới thực sự tuyên xưng 10 danh hiệu Đức Phật.

“Kính xin Thầy có thể cho con biết trong 9 năm Thầy tu theo pháp Tri Vọng đạt đượïc Không Vô Biên Xứ rồi đạt luôn Thức Vô Biên Xứ; vậy công trình đó làm sao Thầy làm được, Thầy đã làm thế nào để lọt vào Không Vô Biên và Thức Vô Biên?”

Từ chỗ ức chế không niệm thiện niệm ác mà vào nên nó lọt vào Không. Trong không đó không nằm yên chỗ không mà lại xuất hiện sáu Thức tức là cái biết của mình lúc đó, nhưng cái biết đó không phải là ý thức mà là tưởng thức vì vậy mà có sáu cái tưởng biết hiện ra. Sáu cái tưởng biết hiện ra đó là sắc tưởng, thanh tưởng, hương tưởng, vị tưởng, xúc tưởng, pháp tưởng. Thức vô biên xứ chẳng qua là pháp tưởng, nó hiện ra thì thông suốt hết tất cả, cái gì cũng ở trong sự thông suốt, kinh sách gì, câu nói gì nó cũng hiểu qua được hết; công án nó cũng phá vỡ hết. Nó tuyệt vời thế đó, cho nên trong nhà thiền lầm tưởng cái trí tuệ siêu việt tưởng đó là trí tuệ thực. Khi xả thiền ra, hành giả không nhập vào Không Vô Biên, nhưng cái tưởng Thức Vô Biên Xứ ấy vẫn còn nên các vị thiền sư thấy cái biết phủ trùm vạn hữu (phản bổn hoàn nguyên phủ trùm vạn hữu).

Để lọt vào Không Vô Biên thì khi mình ngồi tu cố gắng ức chế để ức chế không còn một niệm thiện niệm ác nào trong đầu của mình, rồi kéo dài cái niệm đó mà không lặng vô hôn trầm thùy miên. (TQ. ghi chú thêm: trong Tạng Thư Sống Chết có giải thích cái Định là kéo dài khoảng hở giữa niệm đi trước và niệm đi sau. Trú vào khoảng hở đó là đạt được định. Như vậy không khác với Không Vô Biên Xứ mà Trưởng Lão Thông Lạc đã đạt).

“Nhưng làm sao ức chế để không có niệm khởi. Con xin được hiểu cách thức”.

Muốn tu tập không niệm khởi, Đại Thừa, Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Nam Tông có nhiều cách thức tu ức chế tâm như: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ tức, Tri Vọng, Chăn trâu, Gọi ông chủ, Tham thoại đầu, Tham công án, Niệm Phật nhất tâm, Minh Sát Tuệ (phình xẹp nơi cơ bụng) v.v….

Thầy có cái duyên đặc biệt. Hồi Thầy ra Chơn Không tu; Thầy đang là một tăng sinh chưa hề bao giờ tu thiền, được Hòa Thượng dạy “Biết Vọng Liền Buông”, không phải nương vào hơi thở. Vậy mà ngay giờ đầu ngồi thiền đó Thầy đã đạt được suốt 30 phút không có một niệm khởi. Tự nhiên Thầy đã có căn bản cao vậy đó. Người ta ngay cả chỉ một phút không niệm thôi mà họ còn làm không được dù có cố gắng cao, trong khi Thầy dễ dàng làm được trong suốt cả nửa giờ. Như vậy con thấy sức tập trung của Thầy cao như thế nào. Thầy đã có một hệ thần kinh vững vàng không ai biết. Cho nên nó đã thấm sâu sẵn rồi Thầy mới vô được vậy. Thế mà với căn bản đó, Thầy đã phải trải qua suốt 9 năm trời cật lực ra công tu tập thực hiện cho bằng được pháp Tri Vọng của Hòa Thượng. Đến khi nó xuất hiện đủ 18 loại hỉ tưởng của nó thì lúc đó là lúc pháp tưởng xuất hiện ra, Thầy thấy toàn bộ các công án bị phá vỡ hết, Thầy hiểu tất cả. Khi đó Thầy biết Thầy đã tu xong pháp Tri Vọng rồi. Nhưng lúc mình xả thiền ra, nhìn lại thì tâm tham sân si vẫn còn. Thầy đau lòng hết sức, hận mình đã tu với toàn lực cố gắng, cuối cùng được cái kết quả này mà sao nó chẳng hết tham sân si.

“Thưa Thầy, trạng thái tâm của Không Vô Biên Xứ có tương tự với trạng thái tâm thanh tịnh của bốn Thánh Định hay khác nhau?”

Trạng thái tâm thanh tịnh là trạng thái không niệm dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu của bất động tâm chứ không phải không niệm thiện niệm ác. Không niệm thiện niệm ác chỉ là không niệm, là không; còn không niệm của Bốn thánh định thì khác hơn. Trạng thái tâm thanh tịnh mà không do li dục li ác pháp thì đây chỉ là trạng thái ý thức không niệm, từ ý thức không niệm này mới đi vào Không Vô Biên Xứ mới được. Người này tâm phàm tục vẫn còn, chỉ đạt được ý thức không khởi vọng niệm. Từ chỗ ý thức không vọng niệm thì trạng thái Không mới hiện ra, chứ không phải khi đạt được trạng thái ý thức không niệm mà nó đứng đó hoài. Nó tới đó thì nó hiện ra trạng thái Không, là trạng thái Không Ngơ hết, hoàn toàn không có cái gì hết, nhưng mình vẫn biết cái Không đó. Nó không nhà, không cửa, không cây cối người vật, không mọi thứ. Nó biết rõ hết nhưng nó chỉ biết Không, ngoài ra không còn biết gì nữa hết. Tự trạng thái đó làm cho mình thấy không hết, không có niệm, không có khởi ý ra, thí dụ “À, giờ tôi muốn biết cái này, hay cái kia”, không khởi ý được. Không biết được. Không là nó không thôi, ở đó chỉ còn cái biết Không thôi chứ không còn cái gì nữa hết.

Cái biết của Không vô biên xứ là chỉ biết cái không vậy nên mới gọi là Không Vô Biên Xứ; toàn bộ chỉ biết không thôi, tại cái thức của mình lúc đó chỉ biết tri Không mà không còn tri cái gì nữa còn cái biết của thân hành niệm của định tứ thánh nó “biết” cái lực đẩy của tinh tấn giác chi. Sư chủ động an trú không hoặc “biết” rõ khinh an, hỷ lạc. Nó biết hết nhưng trong vắng lặng, trạng thái mà Phật gọi là Tâm bất động. Một cái biết của chủ động tác ý và một cái biết của thụ động “vô sở đắc”, “Và trạng thái tâm thanh tịnh của thân hành niệm khi xuất hiện và trạng thái tâm Không này?” Khác xa nhau. Cái thân hành niệm không niệm mà cái lực nó hiện ra. Hễ nó không niệm thanh tịnh, nó vắng lặng rồi, nhưng các tác động khác mình vẫn nghe và còn xuất hiện cái lực của 7 giác chi ra nữa, nghĩa là con có cái tâm vắng lặng thanh tịnh mà tri được hết. Còn cái không kia chỉ biết không thôi, không tri được cái gì cả cho nên mới gọi là không Vô Biên Xứ; toàn bộ chỉ biết không thôi, tại cái thức của mình lúc đó chỉ biết tri Không mà không còn tri cái gì nữa. Còn bên kia nó không niệm, nó thanh tịnh mà nó còn tri ra cái này cái kia được; cái lực nó đẩy (lực của Tinh Tấn Giác Chi) nó cũng biết; còn cái kia cho dù có cái lực đẩy đó (không thể có được, đây chỉ thí dụ thôi) nó cũng không biết.

Còn cái này nó biết cái lực đó ra sao, nó đẩy ra sao, cái niệm khác ra sao, nó cũng biết được rõ ràng; rồi cái khinh an, hỉ lạc xảy ra trong thân mình ra sao nó cũng biết. Nó biết hết nhưng mà nó vắng lặng. Trạng thái này đức Phật gọi là tâm bất động; ở mức này có thể hiểu được như là trạng thái thanh tịnh của tỉnh giác. Sự thanh tịnh tỉnh giác này có được là do công phu tu tập của nhiều pháp môn mới đưa lại kết quả này và đồng thời nó có lực là do pháp như lý tác ý sanh ra, chứ không có gì khác nữa.

Hai cái tâm thanh tịnh tỉnh giác và Không Vô Biên xứ cách tu hoàn toàn khác xa nhau, hoàn toàn không có gì giống nhau, xa rời hoàn toàn. Vì thế mà người tu kia (Không Vô Biên) không có điều kiện để làm chủ sanh tử được. Còn bên nay ta có pháp như lý tác ý cho nên khi ta hướng tâm là ta làm chủ, ta muốn cái gì là ta làm được cái ấy; còn bên kia vô Không rồi thì không có muốn được cái gì, không làm được cái gì cả vì nó chỉ không thôi. Nó còn không nhận ra được cái gì thì làm sao muốn làm cái gì được, và làm sao làm được cái gì. (Đây chính là căn bản mà Đức Phật xem nó là Tà, vì không đưa đến giải thoát luân hồi, cho nên mặc dù đức Phật đã gia công tu tập chứng đạt tất cả các bậc thiền vô sắc này như các vị thầy dạy đức Phật, nhưng Ngài đã vất bỏ tất cả để tìm đường khác và Ngài dã tìm ra thiền hữu sắc mới diệt tận tham sân si để giải thoát sanh tử luân hồi. TQ. ghi thêm).

“Thưa Thầy như vậy thì từ Không Vô Biên nó hướng về Thức Vô Biên; từ Thức Vô Biên nó hướng về Vô Sở Hữu; từ Vô Sở Hữu nó hướng về Phi Tưởng Phi Phi Tưởng?”. 

Nó chỉ đi hướng đó thôi, không có cách nào nữa hết. Mà lúc Thầy vào Thức Vô Biên, phải nói cái tưởng kinh thật, nó thực hiện kinh thật chứ không phải tầm thường….

Đức Phật nói khi chứng được Thiền Hữu Sắc rồi thì vào các Thiền Vô Sắc rất dễ. Quả đúng vậy. Bởi vì khi có lệnh tác ý tác ý thì nó vào các trạng thái Thiền đó liền, rất dễ, rất đúng, không trật. Muốn vào Định nào thì nó vô ngay là vì cái Định Như Ý Túc mình có, cái lệnh tác ý mình có, mình nói đúng cái tên Định nào thì nó vô ngay Định đó. Mình bảo “Vào Không Vô Biên Xứ” hay “Vào Thức Vô Biên Xứ” thì nó thực hiện mình vào ngay Không Vô Biên Xứ hay Thức Vô Biên Xứ. Mình chỉ nói tên của Định nào thì nó tự đưa vào dù cho mình chưa kinh nghiệm các trạng thái đó ra sao hết; trong tâm nó cấu kết sẳn hết các trạng thái Định rồi. Khi tu xong Thầy mới thấy rõ các ông Tổ này…

Kỳ Nam