Thế nào là rộng duyên lành?
Do đó có người sau khi tin Phật học Phật, nghe đâu có chùa cũng đi, gặp ai cũng gieo duyên lành. Họ mệt nhọc vì bôn ba khắp nơi, họ bận rộn vì tiếp đãi qua lại. Đó là sự hộ Pháp, hoằng Pháp thiếu tính nguyên tắc. Họ bỏ công bỏ của như vậy, song không có phương pháp tự tu, không y chỉ bậc thầy cố định. Ngoài mặt, họ quả thật gieo rất nhiều duyên lành, song trên thực tế, họ không giúp được điều gì có hiệu quả, có chiều sâu cho mình, cho người và cho chùa. Tuy chúng ta có thể thấy họ đi khắp nơi, song chưa chắc nơi nào cũng cần đến họ. Tuy nhiều người có thể tiếp xúc với họ, song lại rất ít người thực sự được họ giúp đỡ đắc lực.
Cách gieo duyên lành này, giống như bố thí chén cơm cho một người, có thể tạm cho người đó đỡ dạ; dùng một bao gạo cho một người, có thể giúp họ sống trong nửa năm. Trái lại, nếu dùng một chén cơm bố thí cho một trăm người sắp chết đói, kết quả chẳng cứu sống một ai cả. Song cũng một chén cơm đó, nếu bố thí cho một người, thì ít ra cũng cứu cho họ sống thêm một ngày. Cùng đạo lý này, nếu dùng một đấu gạo bố thí cho một vạn người sắp chết đói, thì tuy rộng gieo được duyên lành, song kết quả chẳng cứu được một người nào.
Đứng về mặt Tam Bảo nói, rộng gieo duyên lành là không phân biệt, bình đẳng bố thí. Đây chính là dùng Phật Pháp giáo hóa chúng sanh, không phân biệt thân phận giàu nghèo, trình độ cao thấp địa vị sang hèn, trí năng sâu cạn, chỉ cần có cầu tất ứng. Do đó Tam Bảo nhận tất cả sự cúng dường mà không có tâm phân biệt. Bất cứ ai chỉ cần phát tâm cúng dường, không luận số lượng nhiều ít, phẩm loại thế nào đều đem tâm từ bi, tâm hoan hỷ tiếp nhận. Các đệ tử xuất gia thời Phật còn tại thế đã thực hiện như vậy. Các vị ấy mỗi ngày mang bình bát đi khất thực từng nhà một, không phân biệt giàu nghèo, cũng không chọn lựa thức ăn nhiều ít, phẩm loại ngon dở, có món gì nhận món đó, có bao nhiêu nhận bấy nhiêu, cho đến khi đầy bát hay đủ dùng mà thôi. Đây chính là đem tâm bình đẳng rộng gieo duyên lành:
Một bát cơm ngàn nhà,
Độ người hữu duyên với ta.
Do vì người ta nói chung tài lực, vật lực, thể lực, trí lực và thời gian đều có hạn, cho nên nếu rộng gieo duyên lành một cách mù quáng, vô nguyên tắc thì không những không có hiệu quả, mà còn rước lấy sự phiền toái vô vị. Có khi mình tuy đã dốc hết sức lực, thậm chí ảnh hưởng đến sinh kế gia đình, sức khỏe tự thân, song trái lại còn bị người ta nghi ngờ, chịu nhiều sự bực dọc. Kết quả ấy có thể khiến vị ấy đánh mất đi lòng tin và thoái thất đạo tâm của mình. Đức Thế Tôn từng dạy đệ tử trong Kinh Di Giáo: “Tỳ Kheo đi khất thực giáo hóa trong nhân gian, hãy như con ong lấy mật hoa, không làm thương tổn đến sắc và hương của nó”.
Do đó, nếu cư sĩ không liệu sức mình rộng gieo duyên lành, thì Tam Bảo tuy không có ý tổn hại họ, song họ lại có thể vì Tam Bảo mà chịu tổn hại. Như vậy là cầu siêu thoát mà lại đọa lạc, há chẳng phải ngu si lắm sao? Do đó hộ trì Tam Bảo phải có chủ đích, có trọng điểm, có nguyên tắc. Nên cứu tế những người nghèo khổ bệnh tật, song cũng nên phân định rõ việc nào là nặng nhẹ, gấp hoãn; chỗ nào là xa gần, thân sơ. Không nên thiếu thực tế, một mực bảo phải bình đẳng thí cho tất cả.
Thực ra, hộ trì và bố thí mang tính nguyên tắc và trọng điểm cũng là một trong những phương thức rộng gieo duyên lành. Ví dụ như thành tựu được một người thành Phật, Phật có thể rộng độ được tất cả chúng sanh. Như vậy quí vị cũng gián tiếp cùng tất cả chúng sanh rộng gieo duyên lành. Cho nên Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói: “Cho một trăm người phàm phu ăn, không bằng cho một người lành ăn; cho ngàn người lành ăn, không bằng cho một người trì ngũ giới ăn; cho một vạn người trì ngũ giới ăn, không bằng cho một vị Tu Đà Hoàn ăn… cư thế loại suy, cho đến co một người đại giải thoát đạt đến trình độ vô tu vô chứng ăn, thì công đức càng lớn hơn nhiều”.
Cúng dường, bố thí và hộ trì Tam Bảo có hai trọng điểm cần nên phát tâm:
1. Hộ trì vị Thầy có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển Phật Giáo ở hiện tại và tương lai, cũng như sự nghiệp của vị đó. Đó chính là rộng gieo duyên lành.
2. Hộ trì vị Thầy mà mình tôn kính, cũng như sự nghiệp của vị ấy. Tuy vị ấy không có tiếng tăm, song có chỗ đáng cho mình tôn kính và sẵn lòng hộ trì, thì đủ để chứng minh vị đó có khả năng cảm hóa người khác. Đó cũng gọi là rộng gieo duyên lành.
Từ hai điểm trên có thể biết, tán trợ và hộ trì cho những nhân vật Phật Giáo nổi tiếng và sự nghiệp của họ, chưa chắc là việc thêm hoa trên gấm, giúp thêm người dư thừa. Và bố thí cúng dường cho những nhân vật Phật Giáo không có tiếng tăm, sự nghiệp, cũng không nên có tâm niệm biếu than mùa tuyết lạnh, thương hại người lúc khó khăn. Điều quan trọng nhất của việc cúng dường là hiểu rõ được trọng điểm, liệu sức mình mà làm.
Thích Minh Quang dịch