Thấy được lẽ thật để tu

Hôm nay chúng tôi sẽ nói về những lẽ thật để quý Phật tử nắm vững phương hướng tu hành, giúp cho công phu được tăng tiến. Điều quan trọng là dù áp dụng phương pháp nào, hành giả cũng không nên kẹt vướng ở hình thức đó.

Thường chúng ta nghĩ rằng tu phải có một phương pháp hay một hình thức. Ví dụ tu niệm Phật thì phải có hình tượng Phật, có chỗ thờ Phật để mình cúng kính lễ bái thì mới tu được. Nhưng nếu không khéo, đôi khi một hình thức cố định sẽ làm cho chúng ta vướng kẹt. Bởi vậy tốt nhất là chúng ta tu trong mọi hình thức, mọi sinh hoạt. Người tu phấn đấu dù bất cứ ở đâu, lúc nào cũng có thể áp dụng được công phu, có như vậy mới không luống uổng thời gian.

Ở đây tôi nêu lên công phu mà không có công phu gì hết. Chỉ cần chúng ta làm chủ được mình, không để cho trần cảnh bên ngoài lôi kéo, đó là công phu đúng với lời Phật dạy. Pháp Phật dạy là pháp tối thượng, do Ngài thể nghiệm và giác ngộ. Cho nên lời Ngài không hề sai ngoa, chỉ tại ta làm chưa đúng nên chưa đạt đến chỗ Phật đã đạt. Đây là lỗi tại chúng ta. Vì thế người tu cần phải điều nghiên cho thấu triệt, hành trì đúng như lời Phật dạy thì sẽ có lợi lạc thiết thực, chắc chắn không nghi.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Hôm nay tôi sẽ nói về hai chữ “Kiến Địa”. Kiến là thấy, địa là chỗ. Kiến địa là chỗ thấy. Chỗ thấy như thế nào? Chỗ thấy như thật, Phật nói chúng sanh vì vô minh che lấp, không thấy lẽ thật nên chìm đắm trong sanh tử đau khổ. Cái “vô minh” này đã làm điêu đứng khổ sở chúng ta biết bao nhiêu. Nó đóng sào huyệt sẵn trong chúng ta, sơ hở một chút là nó xuất hiện. Bởi vậy trị nó, loại nó, không phải là chuyện đơn giản. Vô minh là gì? Là tăm tối. Có khi chúng ta được chín mươi chín phần trăm minh mà còn một chút xíu vô minh thì chúng ta cũng thua. Như câu chuyện ông Bách Nhẫn, trải qua một thời gian tu hành cam khổ, cuối cùng chỉ một cơn sân, ông mất hết tất cả công đức. Vì thế Phật nói: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”. Nghĩa là tâm khởi lên một niệm sân, thì trăm muôn cửa chướng ngại mở ra.

Chúng ta xuất gia tu hành, là đệ tử của Phật nên không thể nói mình hoàn toàn vô minh. Nếu hoàn toàn vô minh thì đâu có tìm đạo, học đạo, làm các việc công đức. Trên phạm vi tu hành, chúng ta cũng có được chút minh. Nhưng cái minh này chưa hoàn chỉnh, chưa tròn đầy, bởi vì còn có vô minh chen lẫn. Đó là những phút giây ta ngủ gục, những phút giây ta làm việc này nhớ việc kia, những phút giây ta tơ tưởng bóng dáng bên ngoài…

Người biết lo lắng cho công phu tu hành của mình, thì phải phấn đấu chấn chỉnh liên tục. Lúc tọa thiền cũng như khi sám hối tụng kinh, nhất nhất không để cho ma ngủ xâm nhập. Người tu thiền chìm sâu trong hôn trầm giống như rơi vào hang quỉ, rất nguy hại. Hoặc tán loạn theo vọng tưởng mãi thì lang thang trong ba cõi sáu đường không có ngày ra khỏi. Cho nên chúng ta phải mãnh tỉnh từng chút từng chút, luôn tự nhắc vô thường không hẹn, phải nỗ lực tinh tấn tu hành.

Thiền định là một yếu tố không thể thiếu đối với người tu, nhất là người tu thiền. Không có thiền định thì trí tuệ không thể phát sinh. Chúng ta nhớ lại đức Phật ngồi dưới cội Bồ-đề suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đến đêm sau cuối, quân ma kéo đến rần rộ với các thứ binh khí. Dù chúng hiện nhiều hình tướng đe dọa áp đảo, Phật vẫn thản nhiên không ngán. Bởi vì Ngài có cung thiền định và kiếm trí tuệ, biết rõ chúng ma và các hiện cảnh trước mắt không thật. Chúng ta không có cung kiếm ấy nên chỉ nghe đến chúng thôi là sợ quýnh rồi, nói gì tới thấy. Có nhiều vị tu thiền được chút yên ổn, thấy hình ảnh lạ hiện ra liền hoảng hốt. Đó là gì? Là do chút công phu tu hành chiêu cảm như thế, mà đã hoảng vía rồi huống là quân ma rầm rộ, đao kiếm sáng choang kéo đến. Chỉ khi nào chúng ta sống được với ông chủ, với trí tuệ của mình thì mới dễ dàng khắc phục các ma oán, vững vàng trên đường tiến đạo. Muốn thế chúng ta phải sáng suốt, định tỉnh dứt trừ vô minh. Còn một chút tối tăm chúng ta cũng phải kiên quyết dẹp nó đi thì sự sáng suốt mới tròn đầy.

Quí vị mỗi ngày ăn cơm rồi rửa chén, thấy thau nước rửa đầu tiên đầy cả dầu mỡ, phải có xà phòng mới tẩy rửa sạch. Xà phòng chính là pháp tu của chúng ta. Nhưng trong công phu tu thiền, không có pháp nào cả. Vừa dấy niệm liền buông, ngay đó là an định. Đến như dấy niệm về Phật, Pháp, Tăng; về tu hành cũng không chấp nhận. Đây là một loại công phu không có hình thức gì hết. Trong tất cả các oai nghi, tất cả các việc luôn hành trì như vậy. Người này có thể gọi là đại tinh tấn, không có pháp tu gì mà luôn tỉnh giác tự chủ. Người làm chủ được mình thì không để cho cảnh bên ngoài lẫn bên trong nhiễu loạn. Dù lúc đó Phật hay Bồ-tát hiện ra cũng không khởi niệm mừng, nếu khởi niệm liền bị quyến thuộc nhà ma dẫn dụ ngay. Phật là gì? Phật là giác, giác thể sáng suốt thanh tịnh trùm khắp. Cái đó không có hình tướng, không có nói năng gì cả. Người tu đến đây tự nhận tự biết, không có ngôn ngữ nào diễn đạt được.

Chúng tôi trở lại công phu tu tập. Làm sao để buông niệm dễ dàng? Chúng ta biết tất cả niệm khởi đều không thậät cho nên không chấp nhận. Không chấp nhận thì không theo, được vậy là mình vững vàng trong thế an định. Có an định thì trí tuệ mới hiện tiền. Cho nên ngay khi ta làm chủ, không lao theo vọng tưởng là đã có trí tuệ, có định tỉnh. Cứ công phu như thế, quí Phật tử không phải sợ gì cả. Các chướng duyên sẽ thưa dần và nó không đến nữa, công phu của mình ngày càng nhẹ nhàng hơn. Muốn được như vậy đòi hỏi chúng ta phải trải qua một quá trình lâu dài, siêng năng tinh tấn không ngừng.

Vô minh hư vọng không thật thể, chúng ta có thể điều phục nó bằng trí giác của mình. Hàng Bồ-tát Bát địa trở lên còn phải từng bước điều phục nó, hà huống hạng phàm phu của chúng ta. Do đó chúng ta phải có tâm kiên trì lắm mới tu được. Vô minh là khách không mời mà lúc nào, nơi nào nó cũng có mặt. Như chúng ta đâu muốn bị phiền não mà vẫn cứ phiền não. Có khi trong giấc ngủ, bao nhiêu thứ buồn phiền từ đời nào cũng tới quậy, không cho mình ngủ yên. Vô minh rất lạ kỳ. Có nhiều chuyện không dính dáng gì tới mình, mà không hiểu sao nó lại tác động khiến cho mình bất an. Ví dụ thấy một em bé được gia đình nuôi nấng kỹ, cha mẹ thương yêu chăm sóc học hành đàng hoàng… tự nhiên mình hồi tưởng lại thuở bé thơ cù bơ cù bất của mình. Thế là mình buồn và hận. Tại sao cha mẹ mình lại như thế, tại sao mình sanh ra trong chỗ như thế? Càng suy nghĩ càng lý luận càng lao đao phiền não. Lúc đầu phiền não nhẹ nhẹ thôi, nhưng luận giải một hồi mình thấy tức, tức rồi bỏ nhà đi… Kết quả chỉ chuốt lấy khổ đau.

Người biết tu thì niệm vừa chớm lên, chúng ta vứt nó đi. Nó làm cho mình bất an bất ổn thì lao theo nó làm gì. Buông được niệm đầu thì niệm thứ hai không có chỗ nương theo, nhờ đó phiền não không có chỗ dấy khởi, chúng ta được yên ổn. Đó là mình đã chiến thắng. Quí vị mới thấm thía câu Phật nói: “Chiến thắng trăm ngàn quân địch chưa gọi là chiến công hiển hách. Tự chiến thắng mình mới là chiến công hiển hách nhất”.

Ảnh minh hoạ.

Ảnh minh hoạ.

Người con Phật là chiến sĩ đi vào chiến trận của chính mình. Trước mặt mình không có quân địch nào hết, mà là những bóng dáng làm cho mình đảo điên. Nhờ một điều duy nhất là vô minh hư vọng không thật, chớ nếu vô minh thật thì chúng ta không làm sao trị được nó. Bởi vô minh không thật nên mình mới có thể hóa giải được. Hóa giải tức là phát huy tính sáng suốt của mình để buông bỏ những thứ hình ảnh hư giả ấy đi.

Ví như con mắt bị nhặm nên thấy hoa đốm loạn trong hư không. Thật ra trong hư không không có hoa đốm. Bây giờ điều chỉnh là điều chỉnh ngay con mắt, chứ không phải điều chỉnh hoa đốm trong hư không. Bởi nó có đâu mà điều chỉnh, chúng ta cũng như thế. Sở dĩ nghe cái này mình phiền não, nghe cái kia mình bực bội, vì mình lầm nhận nó là thật. Do nhận giả cho là thật nên nó quấy nhiễu cũng thấy quấy nhiễu thật, thành ra phiền não. Chư Phật và Bồ tát thì bất động, đối với cảnh vui và cảnh không vui cũng bất động. Còn chúng ta, cảnh vui đến thì cười, cảnh buồn đến thì khóc, luôn luôn thay đổi trong vui buồn sanh diệt. Bây giờ tu trong mọi sinh hoạt để luôn bình tỉnh, sáng suốt. Một khi tâm yên thì cảnh vui cũng bình thường, cảnh buồn cũng bình thường. Công phu được thâm hậu thì ngay trong giấc ngủ, mình cũng làm chủ được. Nhà thiền gọi là thức ngủ tự tại.

Nhiều khi trong lúc thức mình tự tại, nhưng lúc ngủ lại không tự tại. Có vị xuất gia ở chùa thọ giới năm mười năm, mà trong chiêm bao gặp bạn bè mời nhậu nhẹt vẫn lao vào cuộc như thường. Đến lúc giựt mình thức dậy té ra mình chiêm bao. Đó là do sự huân tập từ trước, mà công phu tu hành chưa đủ lực để thắng được các tập nghiệp cũ. Cho nên trong kinh Bát-nhã, Phật dạy chúng ta phải hành thâm là vậy.

Người không lo tu, chuyển đối tập nghiệp xấu của mình thì lúc sắp lâm chung bị nghiệp kéo lôi, thọ các đường khổ. Trong các nghiệp, cận tử nghiệp rất quan trọng. Người không có đạo lực, khi gần chết mất tự chủ, sợ sệt lo lắng đủ thứ. Ít có người nào ngồi ngay ngắn cười vui dặn dò mọi việc xong rồi đi. Trừ các vị tu hành đã kiến đạo hoặc đã xong việc thì mới được như thế. Thế thì chúng ta phải làm sao?

Cận tử nghiệp là nghiệp lúc sắp chết. Nghiệp này rất mạnh. Chúng ta thương mình hơn ai hết nên phải chuẩn bị cận tử nghiệp tốt. Có nhiều người cả đời tu hành, nhưng lúc sắp lâm chung tâm niệm bất an trồi lên, phiền não phát sinh. Vậy là cận tử nghiệp bất thiện dẫn đi thọ sanh trong các đường dữ. Nghĩ cho cùng mình phải thương mình, chứ ai thương mình. Cho nên trước giờ nhắm mắt, buông bỏ hết mọi buồn phiền để sự ra đi được thảnh thơi nhẹ nhàng.

Chủ động được cận tử nghiệp, thì khi gặp bất đắc ta không sợ rơi vào các chốn khổ sở. Phàm phu nghe nói chết thì ai cũng sợ, chứ không phải như các Thiền sư xem cái chết như cởi chiếc áo hạ. Các Ngài đã tự tại nên mới như vậy, còn chúng ta sợ chết, sợ mất người thân, sợ ma, sợ đủ thứ. Do đó lúc gần chết, tâm trạng hốt hoảng kinh hãi khiến cho cận tử nghiệp xấu đi.

Tôi kể câu chuyện này. Có một vị đã lập gia đình, sau đó xuất gia và tu hành rất tinh tấn. Thời gian sau ông lâm trọng bệnh, bắt buộc trong chùa phải cho gia đình hay. Người thân, trong đó có cô bạn hồi xưa xin được chăm sóc ông. Bệnh tình dần dần thuyên giảm, sức khỏe phục hồi. Một sáng vừa thức dậy, ông thấy cô bạn cầm lược chải tóc, bất chợt hình ảnh xưa hiện lại. Ông không nghĩ rằng tâm niệm này lại bùng dậy như thế. Nhưng cô bạn đâu có biết, cô chỉ làm việc bổn phận thôi. Một hai lần như vậy, tâm ông không còn yên định nữa. Ông nói bây giờ không thể ở trong đạo được, vì lớn tuổi bệnh hoạn tu cũng không làm lợi ích cho ai. Thế là sau đó ông theo gia đình trở về nhà.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy chỉ ốm đau thôi tinh thần đã suy kém, bị nghiệp tập đến lôi dẫn. Nói gì lúc sắp chết thần thức hôn mê hỗn loạn, nếu không có công phu sâu dày, tránh sao khỏi trôi lăn theo nghiệp. Cho nên chúng ta phải thật cố gắng, cảnh tỉnh mình trong từng phút giây.

Đức Thế Tôn lúc sắp thị tịch, còn khuyên dạy các đệ tử pháp yếu sau cùng, những lời dạy này được kết tập thành Kinh Di Giáo. Còn chúng ta chắc không ai khuyên ai nổi, thấy một người khóc thì xúm nhau khóc, thành cả một vùng trời ảm đạm. Là đệ tử Phật không nên như thế, chúng ta phải biết thân tứ đại này có hợp ắt có tan, bởi vì nó là đồ giả. Phật ví nó như bốn con rắn độc nhốt chung một lồng, chúng cắn nhau tơi bời. Lúc lồng hư, mạnh đứa nào đứa nấy đi, không còn cắn nhau nữa. Vậy phải mừng cho nó chớ sao lại buồn?

Song điều quan trọng nhất là thân tứ đại tan rã, cái gì vẫn không mất? Đó là tánh giác hay bản tâm sáng suốt của mình. Thành ra công phu tu tập của chúng ta là nhằm để đối phó với sự thành hoại của tứ đại. Chúng ta phải nhận ra và sống được với tánh giác thì mới không sợ mất chiếc thân hư giả này. Trong sinh hoạt hằng ngày, khi đối duyên tiếp cảnh, mình phải làm chủ được mọi thứ vui buồn. Để làm gì? Để mình ra đi một cách nhẹ nhàng, không bị nghiệp kéo lôi câu thúc.

Người xưa nói “Sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, nghĩa là Thiền sư xem sanh như mùa đông được đắp chăn ấm áp, chết như mùa hạ nóng bức được cởi chiếc áo nên mát mẻ dễ chịu. Cả hai đều thanh thản vui tươi, không có gì phải buồn lo hay bận lòng. Đó là tinh thần của người đã thấu đạt được lẽ thật. Người xưa như thế, tại sao chúng ta ngày nay lại không được như vậy. Ngày nay con người văn minh tiến bộ hơn xưa nhiều, chẳng lẽ quý Ngài làm được mình làm không được. Chỗ này Tổ Quy Sơn nói: “Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ, bất ưng tự khinh nhi thối khuất”. Nghĩa là kia trượng phu ta cũng như thế, không nên tự khinh mà lui sụt.

Nếu xét về mặt kiến thức, thì chúng ta ngày nay đâu có thua hồi xưa. Bởi kỷ nguyên năm 2000 là kỷ nguyên văn minh văn hóa của nhân loại phát triển rực rỡ. Chúng ta sống trong thời như thế mà thua nghĩa là sao. Thật ra tại mình không có ý chí, không chịu phấn đấu chớ không phải không có năng lực. Cho nên tôi nói tới hai chữ Kiến Địa là vì thế.

Làm sao luôn luôn làm chủ được những vọng tưởng điên đảo của mình, biết nó không thực, như hoa đốm trong hư không, không cần thiết đối với chúng ta. Đó là phương pháp tốt nhất để chúng ta vứt bỏ chúng một cách nhẹ nhàng. Vọng tưởng vừa hiện ra là vứt liền mới yên được. Được như thế thì ngồi thiền tốt, tụng kinh tốt, lễ Phật cúng dường và tu tạo các công đức đúng với tinh thần của Phật dạy. Kiến Địa là như vậy.

Đến phần giác thật. Kinh Viên Giác nói: “Khi biết được các pháp hư huyễn, tức lìa được huyễn không cần phương tiện khác”. Lìa được các huyễn là giác, không có thứ lớp nào hết. Rõ ràng có giác thì không mê, còn mê tức không giác. Giống như trong nhà ban đêm, hễ mở được đèn sáng thì bóng tối lui tan. Cũng vậy có giác thì mê mất, mình không cần hỏi nó đi đâu. Cốt làm sao phát huy tánh giác của mình thì vô minh ám chướng một lúc tiêu tan hết.

Nói thế cũng là một cách nói, tinh thần thiền tông không cho ta nói cái gì một cách cố định cả. Một khi có cái cố định thì chúng ta lại chấp kẹt vào đó, thành ra cũng bị trói buộc. Một khi đèn cháy, ánh sáng phát huy thì bóng tối tự tan. Người chủ nhà không cần phải hỏi tối đi đâu, chỉ cần biết nó đã mất rồi là đủ. Cho nên cốt yếu của người tu là làm sao phát huy được tánh giác.

Trong kinh Lăng Nghiêm Phật cũng dạy: “Giác mê mê diệt”, giác ngộ cái mê thì cái mê ấy hết. Tánh giác của mình hiện ra thì mê mất. Tánh giác tức là cái “biết” của mình vậy. Trong công việc hằng ngày, làm sao để tánh giác hiện tiền? Ví dụ, sáng sớm quý vị đi chợ, nấu cơm, tiếp khách, tụng kinh, ngồi thiền, đọc sách, đi kinh hành v.v… từ 6 giờ 30 sáng cho tới 10 giờ 30 tối. Trong suốt khoảng thời gian ấy, chúng ta hoàn toàn không bị động bởi bất cứ một cái gì bên ngoài. Chúng ta sắp đặt chủ động trong mọi việc. Giả sử khi làm việc đó, có ai nói gì mình cũng không chạy theo, không dính mắc. Đó là sống được với chính mình ngay trong việc làm. Đây là bước đầu trong công phu để chúng ta làm chủ hoàn toàn.

Thêm một điều nữa, dù chúng ta biết các pháp như huyễn nhưng cũng phải dụng công tu hành mới buông xả được các chấp. Các chấp đã xả hết rồi thì cái chân thật hiện bày. Tôi nói như vậy là vì có nhiều vị bảo: Thầy dạy tất cả đều là giả hết thì thôi khỏi công phu, khỏi tu hành chi cho mất công. Dù nó giả nhưng nếu chúng ta theo thói quen, theo nghiệp tập giả đó mãi thì nó sẽ làm cho mình đau khổ. Chỉ khi nào biết nó giả và bỏ được rồi thì mình mới được an vui. Bước đầu, muốn trừ bỏ nó ta phải dụng công phu.

Giống như tiếng gõ bảng của thầy giáo. Tiếng gõ cũng ồn hay ồn hơn tiếng của học trò. Nhưng nếu không có tiếng gõ bảng thì làm sao trị được cái ồn của đám học trò. Thành thử nhờ tiếng gõ bảng mà học trò yên. Khi nó yên rồi thì tiếng gõ bảng cũng không cần. Cũng vậy, tuy biết các pháp giả huyễn, nhưng ban đầu chưa nhận ra được cái chân thật của mình, thì phải tạm dùng các phương tiện, thực hành công phu. Chừng nào tâm yên, những bức xúc phiền não không còn, chân trời tịnh thanh bình hiện bày thì các phương tiện cũng thôi.

Trong kinh Viên Giác, Phật nói người muốn thấy được mặt trăng thật thì phải từ ngón tay chỉ mà nhận ra mặt trăng thật. Người không biết, cho ngón tay này là mặt trăng thì vừa làm hư ngón tay màø cũng không thấy được mặt trăng thật. Chúng ta thực hành công phu cũng như vậy. Để làm chủ, để phát huy được tánh giác của mình, chúng ta phải buông bỏ những thói quen, những tập khí hư hỏng của mình. Thành tựu pháp thể thanh tịnh của mình chính là mặt trăng thật. Thực hành các công phu để buông bỏ tập khí là ngón tay chỉ mặt trăng. Tu là như thế.

Người xưa nói “Hữu vi tuy ngụy, xả chi tắc Phật đạo nan thành”, nghĩa là tu hành còn thuộc pháp hữu vi, là vọng, nhưng nếu bỏ hết, không tu thì Phật đạo khó thành. Ví dụ nói thân này không thật, chúng ta bỏ đúng rồi. Nhưng khi đạo hạnh mình chưa đủ, trí tuệ chưa có, sự tu hành chưa tới nơi, mà mình bỏ tất cả những phương tiện này thì căn cứ vào đâu, lấy gì để tu. Chúng ta không quí trọng thân này, không đắm trước những cảnh duyên bên ngoài, không mắc mứu với tất cả mọi thứ chung quanh. Nhưng ta phải biết điều chỉnh, xử lý sáng suốt, để chúng ta có thể mượn chiếc thân tứ đại này tu tập cho đến lúc viên mãn. Ví dụ bây giờ chúng ta chưa phá được tham sân si thì mượn thân này để trị tham sân si. Đối trước cảnh tham mà mình không tham, đối trước cảnh sân mà mình không sân, đối trước cảnh si mê điên đảo mà mình vẫn sáng suốt, không si mê điên đảo. Thực hành công phu như thế thì chiếc thân này rất cần thiết đối với chúng ta.

Quí Phật tử tu biết được chỗ trọng tâm, sẽ không bị mất thời giờ, không phiền hại đối với mọi người chung quanh. Bởi vì chúng ta có bệnh cứ thấy bên này dở, bên kia xấu… mà không thấy được mình. Cho nên Lục Tổ dạy người tu phải hằng xét nét lỗi của mình, chớ dòm dõi lỗi của người. Bởi vì khi thấy lỗi của người, tức lỗi của mình đã ở bên cạnh rồi. Theo tinh thần nhà thiền, người có công phu tu hành là hằng soi rọi lại mình, nhìn thấy và tiêu dung được những nghiệp tập, những phiền não của mình, đó là gốc của sự tu. Chúng ta phải nhắm thẳng vào chỗ trọng yếu đó để công phu tăng tiến.

Tổ Qui Sơn có dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”. Trong chỗ tột cùng thì không có một chút gì hết, nhưng trong cửa muôn hạnh không bỏ một pháp nào. Vì vậy quí thầy hướng dẫn cho Phật tử, nào là đi chùa, niệm Phật, ăn chay, làm phước, làm tất cả các Phật sự v.v… Chính đức Phật khi còn tại thế, Ngài cũng từng làm những việc rất nhỏ để làm gương cho chúng ta sau này.

Trong kinh A Hàm kể lại. Có vị Tỳ-kheo bị mù, không thấy đường xỏ kim mà thầy lại muốn vá áo. Xỏ hoài không được, thầy nghe có tiếng chân người bước tới, liền gọi: “Ai đó xỏ dùm tôi cây kim”. Đức Phật đến gần cầm kim nói: “Để ta xỏ cho”. Bậc đầy đủ phúc trí trang nghiêm như Thế Tôn mà còn không bỏ một cái phước nhỏ như thế, huống là chúng ta.

Đạo Phật không quan trọng tổ chức, hình thức bên ngoài nhưng đạo Phật dạy chúng ta luôn tích cực tu tập, để đem lại lợi ích cho mình và mọi người. Đã là Phật tử thì ý nghĩ, lời nói, hành động của mình phải tốt. Dù chỉ một ý nghĩ nhỏ thôi, có lợi cho mình mà đưa đến tai hại cho xóm làng cho tập thể thì phải dứt khoát cắt đứt. Cho nên ý niệm lành là công đức đầu tiên. Tuy nó hết sức nhỏ, nhưng Phật tử phải xây dựng lần lần như thế, lâu ngày mới tích tụ thành lớn. Đôi khi chúng ta chạy theo những việc lớn lao mà bỏ quên những việc tầm thường – Ví dụ như một người trong nhà đau, cần chăm sóc thuốc men, an ủi giúp đỡ… Người già cả đi qua đường… chúng ta làm những việc như thế là tạo phước. Người đủ phước thì làm việc gì cũng dễ thành tựu. Phật dạy chánh báo thế nào thì y báo thế ấy. Chánh báo tốt thì y báo theo đó mà chuyển. Nghĩa là bản thân chúng ta tu tạo các phước lành, thì hoàn cảnh chung quanh sẽ theo đó mà tốt đẹp. Người Phật tử phải biết chính nghiệp tập của mình quyết định cuộc đời mình. Mình không sáng, không tỉnh, gây tạo các nghiệp bất thiện thì khi quả báo đến mình trốn chạy đằng nào cũng không khỏi. Cho nên phải nỗ lực tu hành, sắp đặt sinh hoạt tu tập hẳn hoi, không để ngoại duyên kéo lôi mãi. Hoán chuyển nghiệp xấu, bồi đắp nghiệp lành là tạo thuận duyên để từng bước tiến gần đến chỗ cứu kính viên mãn.

Chúng ta sắp đặt công phu thế nào để mỗi ngày mỗi sáng, vô minh không làm gì được mình nữa. Vô minh lui là giác ngộ tới, khỏi phải cầu. Giác tức là Phật. Đó là chỗ kiến địa mà tôi muốn nói với quý vị.

Trích từ quyển sách “Hương Thiền” 

Hòa thượng Thích Nhật Quang