Tâm xả vô lượng

Tâm xả (sự bình thản tâm trí) bắt nguồn từ tuệ giác, là sức mạnh hướng dẫn và cân bằng cho ba trạng thái tâm vô lượng còn lại. Tâm xả chỉ ra cho ba tâm vô lượng còn lại hướng đi mà ở đó tâm từ, tâm bi, tâm hỷ phải đi và đảm bảo rằng đây là hướng đi thánh thiện, an toàn.

Tâm xả bảo vệ tâm từ và tâm bi khỏi bị tiêu tán vào những nhiệm vụ vô ích và khỏi lạc lối trong mê cung của cảm xúc không thể kiểm soát. Tâm xả là sự tự chủ cảnh giác vì lợi ích của mục tiêu cuối cùng, không cho phép tâm hỷ được ngủ quên trên chiến thắng, bằng lòng với những kết quả nhỏ nhặt, mà quên đi những mục tiêu thực sự mà chúng ta phải phấn đấu.

Tâm xả – sự bình thản, có nghĩa là thảnh thơi, thong dong, mang lại cho tâm từ một sự kiên định và “trước sau như một” – không lay chuyển. Tâm xả ưu đãi cho tâm từ đức tính kiên nhẫn tuyệt vời. Tâm xả cung cấp cho tâm bi lòng can đảm và sự không sợ hãi đều đặn, giúp tâm bi có thể đối mặt với vực thẳm khủng khiếp của sự đau khổ và nỗi tuyệt vọng mà tâm từ tâm bi thường hay phải đối đầu.

Tâm xả - sự bình thản, có nghĩa là thảnh thơi, thong dong, mang lại cho tâm từ một sự kiên định và “trước sau như một” – không lay chuyển.

Tâm xả – sự bình thản, có nghĩa là thảnh thơi, thong dong, mang lại cho tâm từ một sự kiên định và “trước sau như một” – không lay chuyển.

Một lần nữa, với mặt tích cực của tâm từ bi, tâm xả là bàn tay điềm tĩnh và vững chãi (được dẫn dắt bởi trí tuệ – không thể thiếu), dành cho những người muốn thực hành nghệ thuật giúp đỡ người khác thoát khỏi khó khăn. Và ở đây, tâm xả – sự bình thản có nghĩa là sự kiên nhẫn, lòng tận tụy với công việc từ bi, yêu thương thế gian.

Bằng những cách này hay cách khác, tâm xả có thể được nói đến là vương miện quyền lực và đỉnh cao của ba tâm vô lượng còn lại.

Ba tâm vô lượng đầu tiên, nếu không kết nối với tâm xả để có cái nhìn sâu sắc, có thể giảm thiểu do thiếu sự ổn định, mất quân bình. Những đức tính biệt lập, nếu không được hỗ trợ bởi những phẩm chất khác (thường mang lại cho chúng sự vững chắc hoặc mềm dẻo cần thiết) thì rất dễ thoái hóa thành những khiếm khuyết đặc trưng. Ví dụ, tâm từ, không có nghị lực và tuệ giác, có thể dễ dàng từ chối lòng tốt tình cảm đơn thuần của sự yếu ớt và bản chất lại không đáng tin cậy. Hơn nữa, những đức tính biệt lập như vậy có thể thường đưa chúng ta đi theo hướng trái ngược với mục tiêu ban đầu của chúng ta và trái ngược với phúc lợi của người khác. Đó là việc mà tính cách cân bằng của tâm xả đan xen những đức tính biệt lập thành một tổng thể hữu cơ và hài hòa, trong đó những phẩm chất đơn lẻ thể hiện những biểu hiện tốt nhất của chúng và tránh cạm bẫy của những điểm yếu tương ứng của chúng. Và đây là chức năng rất quan trọng của tâm xả, cách nó góp phần vào một mối quan hệ lý tưởng giữa cả bốn trạng thái tâm vô lượng.

Tâm xả là sự cân bằng hoàn hảo, không thể lay chuyển của tâm, bắt nguồn từ chánh kiến. Nhưng trong sự hoàn hảo và không thể lay chuyển của tâm xả, bản chất sự bình thản không phải là buồn tẻ, vô tâm và lạnh lùng. Tự thân tâm xả hoàn hảo không phải do sự “trống rỗng” về mặt cảm xúc mà là do “viên mãn” của sự hiểu biết, đến mức nó được hoàn thiện trong chính nó. Bản chất không thể lay chuyển của tâm xả không phải là sự bất động của người chết, băng đá, mà là biểu hiện của sức mạnh cao nhất.

Hiện nay, tâm xả vô lượng và không thể lay chuyển theo cách nào? Bất cứ điều gì gây ra sự trì trệ đều bị tiêu diệt ngay tại đây. Cái gì ngăn cản bị dỡ bỏ, cái gì cản trở bị phá hủy. Làm cho biến mất những vòng xoáy cảm xúc và những khúc quanh co ngăn cản trí tuệ. Và khiến cho dòng suối êm đềm và hùng vĩ của ý thức không bị trở ngại, luôn biểu hiện trong sáng và rạng ngời.

Chánh niệm (sati) đã hòa hợp niềm tin ấm áp (saddhā) – tín, với trí tuệ sâu sắc (paññā); chánh niệm đã cân bằng sức mạnh của ý chí (viriya) – tấn với sự tĩnh lặng của tâm trí (samādhi) – định; và ngũ căn (indriya) đã phát triển thành nội lực (bala) không thể mất đi nữa. Ngũ căn không thể lạc lối vì không còn đánh mất chính mình trong mê cung của thế giới luân hồi (saṃsāra), trong sự lan tỏa vô tận của cuộc sống (papañca). Ngũ căn – ngũ lực này xuất phát từ tâm trí và các hạnh lành. Được chánh niệm canh giữ, ngũ căn (tín – tấn – niệm – định – tuệ) không tự ràng buộc mình ở đâu cả, luôn luôn không thay đổi. Tâm từ, tâm bi, tâm hỷ tiếp tục xuất phát và tác động lên thế giới, nhưng được tâm xả bảo vệ, ba tâm vô lượng đó không bám víu vào đâu và xuất hiện với sự không suy yếu và không có chút vấy bẩn.

Đức Phật dạy: “Người bám víu thì có dao động; nhưng với người không bám víu thì không có dao động. Ở đâu không dao động là có sự tĩnh lặng. Nơi nào có sự tĩnh lặng thì không có tham ái. Nơi nào không có tham ái thì nơi đó không đến cũng không có đang đi. Chỗ nào không đến không đi thì không có sinh diệt. Nơi không sinh cũng không diệt xa rồi, không có thế giới này cũng không có thế giới bên kia, cũng không có một trạng thái ở giữa, quả thật, đây là sự chấm dứt khổ đau.”

Tâm Cung dịch