Quan Thế Âm
Quan Thế Âm có nghĩa là
Quán xét sự thế tối tăm cuộc đời
Tức là trí huệ rạng ngời
Từ bi Bồ tát vào đời độ sanh.
Nên gọi Đại bi Quán Âm
Quán xét sự khổ khởi tâm bi từ
Trí huệ nhìn thấu khổ đời
Mới phát bi nguyện độ đời Quan Âm.
Như thế là Bồ tát tâm
Tâm Bồ tát nguyện độ sanh cứu đời.
Phật Thích Ca xưa có lời
Có xứ nọ mắc bệnh thời khí lây
Chúng sanh ở tại phương đây
Chết nhiều vô số nạn nầy khổ tai.
Người ta cầu cứu đức Ngài
Quan Âm Bồ tát phương tây cứu nàn
Thì đức Đại sĩ hiện sang
Tay cầm dương liễu, tay nâng tịnh bình.
Nước cam lồ rưới khắp cùng
Nhờ đó người bệnh trong vùng khỏe thân
Từ đó về sau mỗi lần
Khi gặp nạn khổ đều cần Quan Âm.
Tâm thành, miệng niệm xưng danh
Đại Từ bi, cứu khổ nàn độ dân.
Đoạn nầy pháp lý giải rằng
Một xứ nọ tức là dân Ấn hiền
Mắc bệnh thời khí lây truyền
Là lúc vật chất thạnh hành hại dân
Chúng sanh vướng bệnh mê lầm
Tham, sân, si độc lan truyền nhiễm lây.
Vô đạo đức, chết khổ đầy
Người ta cầu cứu đức Ngài Quan Âm
Là cầu các nhà đạo tâm
Quán xét sự thế tối tăm cuộc đời.
Đem đạo đức dạy mọi người
Để họ giác ngộ xa rời tham sân
Trong thời vật chất thạnh hành
Như bệnh truyền nhiễm lây nhanh tâm người.
Quan Thế Âm cứu độ đời
Ý nói là các bậc nầy xuất gia
Giải thoát khỏi đời phiền ba
Bên nầy cảnh khổ như là phương đông
Còn bậc xuất gia thoát vòng
Trong sạch giải thoát cảnh đồng phương tây.
Nói về Quan Thế Âm đây
Là đệ tử đức Phật Ngài A Di
Thầy trò tương hợp huyền vi
Thầy bình đẳng, trò từ bi độ đời.
Di Đà bình đẳng rạng người
Quan Thế Âm đức diệu vời tâm bi
Quan Âm có lòng từ bi
Do tánh bình đẳng thực thi thương đời.
Là cánh tay mặt của người
Hầu tánh bình đẳng rạng ngời bi tâm
Là bậc chánh đẳng giác chân
Chư Phật giáo hóa cứu dân khỏi nàn.
Mà nơi đây người hết lòng
Cầu gặp giáo pháp để cùng tu theo
Mong thoát khổ nạn hiểm nghèo
Nơi đây lắm nỗi gieo neo cuộc đời.
Có tám khổ của con người
Sanh, già, bệnh, chết mà người phải mang,
Cầu muốn không được bất an
Thương yêu xa cách lòng càng xót xa,
Thù ghét gặp gở khổ là
Năm uẩn quá thạnh rầy rà khó yên.
Lại còn có tám nạn duyên
Nạn tù tội, nạn nghèo hèn, xin ăn
Nạn làm vua, nạn làm dân
Nạn không có trí, nạn quan đương triều,
Nạn giàu sang trói buộc nhiều
Người mắc tám nạn khó điều phục tâm.
Bấy giờ đức Quán Thế Âm
Đại sĩ hiện đến là tâm độ đời
Giáo pháp Thích Ca ra đời
Phật cùng thánh chúng dùng lời thuyết kinh.
Theo sự mong ước nguyện xin
Các Ngài giáo hóa hữu tình có duyên
Bởi thế các Ngài có tên
Do chư Bồ tát lập nên nguyện nầy.
Chư Phật sẵn có nguyện lành
Ai cũng là đức Quán Âm độ đời.
Bồ tát tay cầm tịnh bình
Chứa nước cam lộ ngọt lành biết bao.
Đủ sẵn pháp lý ngọt ngào
Tâm thanh tịnh, chứa sẵn bao pháp lành
Bát chánh đạo như cái bình
Pháp bảo cam lộ sẵn sàng rưới tuôn.
Tay mặt đang cầm nhành dương
Nhúng nước cam lộ rưới ban cuộc đời
Đem pháp bảo dạy cho người
Giác ngộ thức tỉnh, mọi người sống chung.
Không còn giữ tánh tham sân
Cũng không còn niệm mê trần đua tranh.
Người người dốc chí tu hành
Giải thoát khổ nạn Quan Âm độ đời.
Vậy nên từ đó theo lời
Khi có khổ nạn gọi mời Quan Âm
Có trí sáng hết mê lầm
Biết mình bị khổ tự tầm hướng ra.
Cần cầu Phật thánh độ ta
Là theo giáo pháp tu mà độ thân.
Là bậc Bồ tát Quan Âm
Thường hay cảm ứng duyên lành các nơi.
Các Ngài thuyết pháp độ đời
Hiểu biết thấy rõ pháp, lời độ sanh.
Nên họ thường niệm Quán Âm
Họ niệm để nhắc nhở tâm tu hành
Đừng xao lảng niệm Phật danh
Phát tâm cầu đạo tu hành vượt qua.
Cõi đời cảnh khổ ta bà
Đời hầm lửa cháy nung ta bức người
Co ngoe, đi đứng tới lui
Nói làm bức bách, như người loạn tâm.
Ở trong bóng tối vô minh
Biết đâu phương hướng để mình thoát ra.
Mỗi khi tiếng nói thoát ra
Nghe như tiếng khổ rên la khảo hành,
Khổ hình mới phát âm thanh
Hơi qua lỗ nghẹt phát sanh bổng trầm.
Do khổ ngặt có âm thanh
Có tiếng nói của chúng sanh kêu cầu
Bậc Bồ tát thệ nguyện sâu
Đại hùng, đại lực đâu đâu ứng thời,
Mạnh mẽ dũng lực như người
Đàn ông hùng lực cứu người lâm nguy.
Chớ thật ra tâm đại bi
Không nam, không nữ mà tùy nguyện tâm.
Trong Diệu Pháp Liên Hoa kinh
Phẩm Phổ Môn, Quán Thế Âm hạnh nầy
Pháp lý trên bốn mươi năm
Của Phật dạy đạo sánh dường liên hoa
Kinh do Bồ tát soạn ra
Ý nghĩa diệu pháp như là hoa sen
Đó là lời Phật dạy khuyên
Thinh Văn, Duyên giác phát tâm bồ đề.
Giáo hóa chúng sanh hết mê
Mới mong đắc quả bồ đề Như Lai
Có làm Pháp sư hôm nay
Thì bước tiến sẽ làm Ngài Pháp Vương.
Làm Thầy đến Tổ tất nhiên
Có tu trí huệ đến miền chơn như.
Một đoạn trong phẩm Phổ Môn
Phổ là Phổ tế, chữ môn nghĩa là
Pháp môn phương tiện mở ra
Mở cửa rước độ bá gia tu hành.
Bố thí pháp cho chúng sanh
Giúp người giác ngộ trở thành cư gia.
Cửa bố thí pháp có ra
Tâm từ thương khắp đó là Quan Âm.
Trong ấy có đoạn nói rằng
Khi Phật thuyết pháp Quán Âm hiện tiền
Thân tướng tốt đẹp trang nghiêm
Từ phương tây đến kết duyên ta bà.
Phật dạy mỗi người chúng ta
Quán xét sự khổ để mà phát tâm
Từ bi tế độ chúng sanh
Ngài chỉ cho sự cao thâm pháp nầy
Làm cho tất cả ai ai
Cũng thấy hiểu rõ như Ngài hiện thân.
Bồ tát Vô Tận quỳ xin
Thế Tôn chỉ giáo đức tin thế nào
Phương tiện Quán Âm ra sao?
Hạnh nguyện Bồ tát thế nào Quán Âm?
Vô Tận Bồ tát danh xưng
Là bậc Bồ tát, Thinh văn hiện thời
Mới phát tâm ý rộng khơi
Hướng đến quả Phật như hồi quỳ xin.
Là tôn kính Phật cao minh
Cầu xin chỉ dạy nghĩa minh pháp nầy.
Quan Thế Âm là nghĩa gì
Làm sao có được pháp nầy danh xưng?
Pháp nầy phương tiện độ sanh
Xin Phật chỉ dạy hiểu rành pháp duyên.
Khi đó lời Phật rộng tuyên
Chúng sanh tất cả các miền nhân gian
Như có thương khách dẫn đàng
Đi ra biển lớn kiếm tìm ngọc châu,
La Sát nhận thuyền chìm sâu
Liền niệm tưởng pháp diệu mầu Quán Âm
Tức thì gặp chỗ cạn gần
Là nhờ lực Quán Thế Âm hộ trì.
Triết lý chỉ dẫn đoạn nầy
Tâm là thương chủ dẫn bầy thương nhân
Mắt, tai, mũi, lưỡi, ý, thân
Như bọn thương khách biển trần vào ra.
Tìm kiếm châu ngọc chính là
Cái tham dẫn dắt nhận ta chìm thuyền,
Ý muốn chìm đắm ngày đêm
Lôi cuốn thân xác nhận chìm biển sâu
Niệm danh Quán Âm kêu cầu
Là giữa lúc ấy pháp mầu Quán Âm
Quán xét sự thế tối tăm
Phát lòng bi trí, thương nhân khỏi nàn
Gặp chỗ cạn, tức đạo tràng
Xuất gia, giải thoát oai thần Quán Âm.
Pháp lý sâu sắc cao thâm
Từ bi, trí huệ phát tâm độ trần.
Lại nữa có kẻ tu hành
Như lên chót núi kim cang cao vời
Tu nữa chừng muốn rớt rơi
Là té rớt xuống cảnh đời tối tăm.
Nhờ niệm tưởng Quán Thế Âm
Phát sanh trí huệ vững tâm tu hành
Ấy là do nhờ oai thần
Quán Âm thị hiện cứu thân khỏi nàn.
Thương khách, gia nhân vào rừng
Bị giặc cướp đón, niệm liền Quán Âm,
Lục căn như thương khách trần
Lục dục chính thiệt gia nhân hộ trì
Là pháp ác mãi đoanh vây
Như bị giặc cướp hiểm nguy chặn đường.
Nay nhờ tỉnh giác nhớ liền
Quán Âm niệm pháp cướp liền lui tan
Như được giải thoát buộc ràng
Xa lánh phác ác, ác tan tức thời
Có người tội bị giam cầm
Gông cùm xiềng xích đang ràng buộc thân,
Niệm tưởng đến Quán Thế Âm
Gông cùm rời rã, tấm thân nhẹ nhàng
Muốn tu sự thế buộc ràng
Vợ vây, con trói như đang bị hành
Quán xét sự thế tối tăm
Thì nhờ lực đó vọng tình nhẹ buông
Xuất gia giải thoát bình thường
Như gông cùm gảy tự đương nhẹ nhàng.
Gặp khi lửa cháy, sân tràn
Quán xét sự thế tiêu tan giận hờn
Bị gươm đao gậy chém đâm
Là lúc đau đớn khổ tâm vô cùng
Quán xét sự thế dung thông
Lắng nghe tiếng khổ phát tâm bi từ
Nhờ oai lực pháp nhiệm mầu
Gươm đao không thể chạm vào đến thân.
Tất cả khổ nạn trong trần
Thảy nhờ oai lực Quán Âm giải trừ
Quán Âm pháp lý danh từ
Thật hành đúng pháp sẽ như phép thần.
Phương tiện hay sáng giữ thân
Cùng là giúp đỡ xung quanh mọi người.
Kìa như lại có một người
Phát tâm cầu đạo các Ngài Bích Chi …
Thì vị Bồ tát từ bi
Khéo dùng phương tiện Bích Chi … độ đời.
Kẻ muốn học hạnh vua Trời …
Bồ tát thay thế vua Trời … dạy cho.
Người muốn tu hạnh đồng nam …
Pháp sư chỉ dạy pháp âm tương đồng
Đặng dạy cho họ tu dần
Đó là phương tiện độ trần Quán Âm.
Ví như có kẻ muốn làm
Đại thần, trưởng giả, bá quan trong đời,
Bậc trí huệ liền đem lời
Pháp lý khuyến dạy cho người biết thêm
Bổn phận của bậc bề trên
Trách nhiệm của kẻ làm quan đại thần.
Kẻ muốn tu hạnh xuất trần
Tỳ kheo nam nữ, cùng phần cư gia
Lòng từ Bồ tát chỉ ra
Phương tiện lời nói để mà đưa lên
Cảnh giới trong sạch cao trên
Mục đích có một như trên mặt lầu
Hay trên chót núi đảnh cao
Nhưng dưới chân núi biết bao con đường
Nên Bồ tát phải tìm phương
Tùy phương tiện để dẫn đường độ sanh.
Bậc hành pháp Quán Thế Âm
Hiện ra trước họ dắt lần bước lên
Khi đến chót núi cao trên
Chỉ có một chỗ không hơn niết bàn.
Rốt ráo không phân biệt đường
Phương tiện dẫn dắt đủ đường, đủ danh.
Phật tiên, thần thánh, vua quan
Bích Chi, La Hán, súc sanh, con người,
Ai gọi sao cũng được thôi
Phương tiện đi trước cho người theo gương.
Đó là thần thông diệu phương
Là trí phương tiện hiện đương thực hành
Đó là pháp Quán Thế Âm
Đại từ bi nguyện độ sanh cao vời.
Mười hai nguyện lực độ đời
Giải cứu khổ nạn từ nơi pháp hành.
Hành đúng là Quán Thế Âm
Với mười hai nguyện nơi tâm của mình.
Đến khi bi trí hoàn thành
Đắc chơn như Phật viên thành Như Lai.
Thế thì danh pháp hiển bày
Quán Thế Âm pháp là người xuất gia
Bồ tát giáo hóa giác tha
Bi trí phương tiện đó là nguyện chung
Thần thông nguyện lực đại hùng
Mục đích đưa rước chúng cùng bước qua.
Bến bờ giải thoát xuất gia
Phổ Môn là mở cửa nhà Tây phương
Phổ hóa chúng sanh tỏ tường
Con đường giác ngộ là đường thong dong.
Quán xét sự thế ngoài trong
Thân tâm trí tánh thoát vòng trầm luân.
Chơn lý, triết lý chỉ rằng
Pháp lý của Phật giải rành Pháp Hoa
Cho bậc Bồ tát thượng tòa
Giáo lý pháp bảo gọi là Quán Âm
Mà đời sau lại hiểu lầm
Quan Âm, oan ức âm thầm của ai
Nến mới bày ra tích nầy
Mà quên lẽ thật hiển bày trong kinh
Sự tích Thị Kính điển hình
Cũng có kẻ tưởng lầm là quang âm
Chỉ cho sáng tối ngày đêm
Quang âm thấm thoát ngày thêm tuổi trời
Có kẻ hiểu lầm ý lời
Âm dương nhị khí trong người quang âm
Ai hiểu sao thì tùy tâm
Nhưng đúng sự thật pháp âm đại thừa
Pháp là phương tiện để đưa
Cho người hiểu pháp hạp vừa để tu.
Quán Thế Âm pháp rất sâu
Đừng giải theo ý riêng tư sai rồi.
Quán Thế Âm mới đủ lời
Thiếu chữ “thế” là xa rời Pháp Hoa.
Cũng có câu chuyện diễn ra
Rồi đây sẽ có nạn là nước dâng
Nước lụt mười thước phủ trùm
Chúng sanh chết hết, người hiền ngất ngư
Khi đó Quán Âm đại từ
Chèo thuyền bát nhã để tầm cứu nguy
Người còn sống sót đem về
Dạy cho tu niệm lập đời thượng ngươn.
Lời nói ấy ám chỉ rằng
Rồi đây sẽ có chiến tranh phong trào
Tinh thần chiến đấu nâng cao
Lôi cuốn tất cả người vào việc chung.
Chết mất đạo lý lòng nhơn
Tinh thần lẽ phải không cần thiết tha
Chỉ có số ít người ta
Người hiền còn sống tức là đạo tâm
Nhưng cũng phải chịu thăng trầm
Biết bao cơn gió sóng trào đẩy xô.
Cũng vì cảnh khổ bơ vơ
Không ánh sáng đạo, mịt mờ tối tăm
Các nhà đạo đã bao phen
Dụng từ bi hạnh phương châm dạy người.
Lắng nghe tiếng khổ cõi đời
Ra đi bố thí pháp lời chiếu soi.
Trí huệ không lường độ đời
Là ghe không đáy rước người chơn tu.
Kẻ nào nặng nghiệp phiền ưu
Không bước vào đặng cõi từ vô sanh.
Kẻ được tế độ an tâm
Hết lo, hết sợ tinh thần an vui
Các bậc đại trí độ đời
Cầm lái, gầy dựng cuộc đời thạnh an.
Được lên thuyền ngồi vững vàng
Niềm tin sống lại không còn hoang mang
Nương theo giáo hội đạo tràng
Xuất gia tu học hoặc làm cư gia.
Đại từ bi lực chan hòa
Dõng mãnh hùng lực của nhà đạo tâm.
Lực của Bồ tát Quán Âm
Cùng chư Bồ tát cứu dân độ người.
Nước cao mười thước chơi vơi
Thập ác đầy đủ lòng người thiếu nhân.
Đó là câu chuyện ví von
Quán Âm cầm lái chèo thoàn cứu nguy
Hể đạo thạnh, thì đời suy
Đạo suy đời thạnh như y vòng tròn
Tới lui xoay mãi không dừng
Ý pháp muốn dạy cho mình biết thêm.
Lại còn bức tượng Quan Âm
Tác phẩm ấy, của mấy ông thợ Tàu.
Do tích Thị Kính bày ra
Nên mới có tượng Phật bà Quan Âm
Mình mặc áo trắng trang nghiêm
Tay nâng bình tịnh, tay cầm nhành dương.
Ngồi bên gành Phổ Đà sơn
Ở biển Nam Hải là trên biển trần.
Đầu đội lúp trắng đảnh châu
Tóc vấn, có Long nữ hầu một bên.
Thiện Tài tay chấp đứng trên
Mặt biển phía trước có chim đại bàng.
Đó là ý của thợ Tàu
Muốn biểu hiện ý pháp mầu tượng trưng.
Bậc trí huệ, tâm từ bi
Giống như lòng mẹ thương vì con thơ
Áo trắng tượng trưng không nhơ
Giới hạnh trong sạch cũng như tiên trời.
Tay bồng con không nở rời
Như việc bảo bọc cho người bình an.
Hoặc vẽ tay nắm nhành dương
Tay nâng bình tịnh như đang thực hành
Vừa hoằng pháp để độ sanh
Vừa luôn nắm giữ đạo tâm của mình.
Vừa tự độ, vừa độ sanh
An tọa pháp bảo núi xanh đang ngồi.
Bên triền hòn núi Phổ Đà
Phổ tế pháp bảo Phật đà độ sanh
Ở biển trí rộng mênh mông
Đầu đội lúp trắng vắng không não phiền
Báu giải thoát trí tôn thờ
Chơn như pháp báu như là đảnh cao
Còn tóc là chưa xuất gia
Đội lúp trắng, pháp cư gia che đầu.
Chưa lộ báu giải thoát châu
Chơn như chưa hiện, đạo mầu chưa minh.
Quan Âm, oan ức âm thầm
Người thợ vẽ đã hiểu lầm ý câu
“ Phật thương chúng sanh như con…”
Nên tưởng Thị Kính là Ngài Quan Âm,
Phải chịu oan ức âm thầm
Bồ tát cư sĩ hiện thân độ đời.
Chư thiên phát tâm bồ đề
Chưa phải là Phật, là người chơn như,
Kêu là Phật quá thiên tư
Long Nữ, bụi trúc cũng từ tượng danh.
Là ý đẹp hay cao thanh
Mà còn chấp trước quẩn quanh lo đời.
Thiện Tài, đồng tử Hồng Hài
Ma vương, La Sát trí tài hung hăng.
Hài nhi con đỏ hậu sanh
Sanh ra giữa cảnh đời tranh đấu tà.
Hồng Hài ăn thịt người ta
Chúng sanh con đỏ một nhà hại nhau
Thường ở dưới đáy biển sâu
Là tâm ô nhiễm chìm sâu biển đời.
Bị Quan Âm trói tay rồi
Là đem giới luật dạy người tu tâm
Hai tay chấp lại giữ gìn
Năm giới, năm hạnh thật tình khít khao.
Hồng Hài khát máu thuở nào
Nay là đồng tử Thiện Tài hiền lương
Vượt lên mặt biển đời thường
Thấy gặp pháp bảo rạng ngời tinh quang.
Trên cao có chim đại bàng
Ngậm chuổi chờ đợi là hàng thiện nhơn
Người tri thức, bậc thượng nhơn
Như chim bay liệng giữa vòm trời xanh.
Đã giải thoát khỏi thế trần
Xuất gia giải thoát niết bàn trên cao
Khất sĩ tinh tấn bay cao
Hùng lực dẫn đạo khác nào đàn anh.
Bậc ấy đang giữ nguyện lành
Như ngậm chuổi ngọc đã thành nguyện sâu.
Họ cũng nhả ngọc phun châu
Bố thí pháp bảo diệu mầu độ sanh.
Bà thì cứu thế hiển linh
Ông thì lo việc giảng kinh độ đời
Tức là ông trên cao vời
Bà còn đang ở biển đời độ sanh,
Ấy là hai pháp song hành
Cư sĩ Bồ tát tập hành lợi tha,
Khất sĩ Bồ tát xuất gia
Tượng trưng nam nữ hiện ra độ đời.
Đó là ý thợ vẽ vời
Pha trộn sự tích nghĩa lời trong kinh
Bày ra hình tượng đẹp xinh
Cho người chiêm ngưỡng đức tin vái cầu.
Khi tư tưởng mạnh, lực sâu
Tinh thần đầy đủ, nguyện cầu cũng linh.
Hoặc chư thiên ở quanh mình
Vì thương xót nên hiển linh cho người
Giúp kẻ yếu ớt nhỏ nhoi
Đức tin cũng giúp cho người kém căn.
Tuy có nhưng chẳng quý bằng
Hiểu thông pháp bảo để cần tu tâm
Kẻ nào thấu đạt lý chơn
Tôn thờ pháp bảo tự đương thực hành.
Mới có ích lợi cho mình
Quý cao hơn hết con đường tu tâm.
Như thế danh Quán Thế Âm
Pháp cứu khổ nạn nhân sanh trong đời
Ai niệm tưởng quán xét rồi
Khá mau trì giữ tức thời hành y
Là người phát tâm đại bi
Vâng lời Phật dạy hành y pháp mầu.
Mỗi người đều có căn sâu
Mỗi người tự tánh nhiệm mầu Quán Âm
Quán xét sự thế tối tăm
Quán Âm thí pháp độ sanh khỏi nàn
Ai ai cũng có danh vàng
Quán Âm Bồ tát ngập tràn bi tâm.
Đại bi tâm, Quán Thế Âm,
Quán Thế Âm, đại bi tâm viên thành,
Hoàn mãn hạnh nguyện độ sanh
Chơn như toàn giác là thành Như Lai.
Mong rằng tất cả ai ai
Đại bi viên mãn Phật Ngài Quán Âm./.
Tác giả: Đức Tổ Sư Minh Đăng Quang
NT. Tuyết Liên chuyển thơ