Quán chiếu vô thường trong từng tâm niệm
Khi biết mọi thứ là vô thường, ta sẽ cảm nhận tất cả bằng “tuệ giác” để từ đó ta sống hết mình với hiện tại, cố gắng từng chút một để tâm được chuyển hóa, tạo ra thành tựu tốt hơn trong tương lai. Đó là ý nghĩa của “quán chiếu vô thường”.Lý nhân duyên – Trùng trùng duyên khởi
Phật giáo quan niệm: Tất cả sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, hạt bụi đến lớn như quả địa cầu luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng theo quy luật “Thành – Trụ – Hoại – Không”, tức là mỗi sự vật đều có quá trình hình thành, phát triển và tồn tại một thời gian, rồi biến chuyển đi đến hủy hoại và cuối cùng là tan biến. Về chúng sinh, Phật giáo cho rằng cũng không nằm ngoài quy luật đó, hay nói cách khác là bất cứ ai cũng phải tuân theo quy luật “Sinh – Lão – Bệnh – Tử”. Sự biến chuyển, đổi thay liên tục này gọi “vô thường”. Tất cả đều bị chi phối bởi quy luật nhân – duyên. Nhân và duyên cũng không phải tự nhiên mà có, mà nó được tạo ra bởi sự vận động của các sự vật, hiện tượng và quá trình hợp – tan của các nhân – duyên có trước, để từ đó tạo ra nhân – duyên mới, Phật giáo gọi đó là tính “trùng trùng duyên khởi”.
Phật giáo quan niệm, con người hiện hữu trên trái đất là do duyên nghiệp từ các kiếp trước. Sự xuất hiện của một con người là do nhiều nhân – duyên hội hợp và người đó không còn tồn tại khi nhân – duyên tan rã. Trong chuỗi 12 nhân – duyên (thập nhị nhân duyên) – cốt lõi của nhân sinh quan, sợi dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi (1. Vô minh – 2. Hành – 3. Thức – 4. Danh sắc – 5. Lục nhập – 6. Xúc – 7. Thọ – 8. Ái – 9. Thủ – 10. Hữu – 11. Sinh – 12. Lão tử), Phật giáo cho rằng chuỗi này có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, cái này là quả của cái trước nhưng lại là nhân – duyên cho cái sau.
Muôn vật từ nhân – duyên mà sinh và cũng do nhân – duyên mà diệt. Lý nhân duyên làm ta ngộ ra một điều rằng: Con người là một đấng tạo hóa tự tạo ra đời sống của mình, tự làm chủ đời mình và vận mệnh của mình. Cuộc đời con người vui sướng hay phiền não đều do nhân và duyên mà con người tự tạo ra chi phối.
Kinh điển Phật giáo thường dùng những hình ảnh như ánh chớp, sương mai, bọt nước… để nói lên đặc tính vô thường, ngay nơi sinh liền diệt của vạn vật. Kinh Kim Cang nói: “Tất cả pháp hữu vi như mộng, như huyễn, như bong bóng nước, như sương mai, như tia lửa lóe lên giữa bầu trời”. Kinh Lăng-già cho rằng các pháp hữu vi “không thật, mau như điện chớp, thế nên nói là như huyễn”. Đó là vô thường biến động trùng trùng, là năng lực cân bằng, là sinh khởi các pháp. Đó là vô thường biến động trùng trùng, là năng lực cân bằng, là sinh khởi các pháp. Sự thật là vậy nhưng không phải ai cũng thấy và chấp nhận, đó là nguyên nhân của khổ đau, hệ lụy. Do đó chúng ta phải thực tập để thể nhập, chứng ngộ sự thật này.
Xóa bỏ bản ngã – Đạt đến vô ngã
Trong bài “Nguyện cầu”, nhà thơ Vũ Hoàng Chương đã cảm thán về cuộc đời như sau: “Ta còn để lại gì không? Kìa non đã lở, này sông cát bồiLang thang từ độ luân hồiU minh nẻo trước xa xôi dặm về”.
Khi ta biết rằng con người không thể thay đổi quy luật “Sinh – Lão – Bệnh – Tử”, đó là điều lợi ích. Vì sao? Nếu không nghĩ rằng mình phải già, phải có bệnh, sẽ có thể chết sớm, ta sẽ rơi vào ảo tưởng về sự trường tồn của mình. Vận mạng tốt cũng không trường cửu thì làm sao có thể nắm chắc được điều gì ở đời. Như vậy, khi sự việc tốt đẹp đến với mình, mình cũng không nên tham muốn quá nhiều.
Vẫn biết, cuộc đời này luôn biến hoại theo quy luật tạo hóa nào đâu dễ cưỡng. Không ai biết mình sống thọ bao lâu trên cõi đời này. Mở mắt thức dậy thấy mình còn thở, còn ngắm ánh bình minh ló dạng là một đặc ân, một sự diễm phúc lắm rồi. Vẫn biết cuộc đời vô thường như chiếc lá, từ lúc nhú mầm là như chích vết đau vào hư không. Và cái được mất tưởng của ta song xét cho cùng đều nằm giữa mênh mông biển người. Nhưng mấy ai chẳng nuối tiếc cuộc vui mà bình an buông xuống những những lụy phiền nhân thế…
Theo giáo lý Đạo Phật thì chúng sinh không phải đoạn diệt, cũng không phải thường còn, mà ta đang quay lộn trong cảnh sinh tử luân hồi. Và trên vòng tròn “bánh xe luân hồi” ấy, không có điểm khởi đầu, cũng không có điểm kết thúc. Bánh xe ấy cứ quay mãi trong vòng trầm luân của sinh tử khổ đau, cho đến khi nào con người tu tập và đạt đến sự giải thoát tối thượng.
Con người nào hay ngoài nỗi cơ cực của kiếp người, còn có đời sống siêu thoát, đời sống an lành. Ðó là đời sống của người hiểu “chân diệu pháp”, tức là Phật pháp. Không hiểu “chân diệu pháp” con người sẽ khổ đau mãi mãi trong kiếp luân hồi. Phàm là con người, không ai muốn kéo dài đời mình trong sự khổ não, cũng chẳng ai rút ngắn cuộc đời trong sự giàu sang. Ý thức được điều đó, ta sẽ thấy mình cần phải tu tập và thực hành “quán vô thường”.
Tu quán vô thường, quán sát thân tâm và hoàn cảnh đều đổi thay để trừ bệnh tham ái và tiến tới sự an tịnh của tâm hồn. Quán vô thường để biết rằng đời người là quý báu và không để mất cơ hội tu tập, làm thiện. Như vậy, những năm tháng ngắn ngủi của chúng ta ở cõi đời này sẽ có ý nghĩa biết bao. Trong 49 năm thuyết pháp độ sanh, Đức Phật thường khuyên bảo chúng ta phải luôn nhớ nghĩ đến sự vô thường của thân tâm, hoàn cảnh thì sự chấp ngã tham sân si không còn, lòng từ bi nảy nở, biết thương người cứu vật. Đức Thế Tôn nói giáo lý vô thường để chúng sinh thức tỉnh tu hành, để xóa bỏ bản ngã, đạt đến vô ngã. Vô thường là chìa khóa giúp cho chúng ta mở cửa giác ngộ, giúp chúng ta thấy rõ thực hư của cuộc đời để rồi từ đó chúng ta làm chủ khi đối diện với vô thường xảy ra để không đau khổ và tuyệt vọng. Quán vô thường giúp ta trân quý những gì đang có mặt và sống được sâu sắc mỗi giây phút của sự sống hằng ngày. Chúng ta dẹp trừ cái bản ngã, cái tâm tham ái, ích kỷ để đem lại tâm thanh tịnh giải thoát khổ đau sinh tử bằng những việc làm có ý nghĩa, lợi mình, lợi người, giúp cho ta biết quý trọng từng giờ phút của sự sống, biết sống trong tỉnh thức và chánh niệm.
Khi quán chiếu định luật vô thường giúp ta không còn chấp trước, không còn đau khổ trước mọi biến dịch của cuộc đời. Vô thường cũng là vị thuốc trị bệnh tham ái, làm cho thân tâm con người bình tĩnh trước những cảnh biệt ly, khổ vui, được mất. Hiểu vô thường, chúng ta mạnh dạn xa rời những thú vui giả tạm, tinh tấn tu tập để đạt đến Chơn thường.
Tài liệu tham khảo:
Kinh Tạp A-Hàm, Quyển 1, Kinh 1. Vô thường, HT. Thích Đức Thắng dịch Việt
Kinh Tương ưng bộ III, HT. Thích Minh Châu dịch Việt