Phương pháp liễu sanh thoát tử hay cứu độ thân trung ấm
Dưới đây là nội dung tập sách “Phương pháp liễu sanh thoát tử hay cứu độ thân trung ấm”, tác giả: Cư sĩ Liêu Địch Nguyên; Dịch giả: Tỳ kheo Thích Quan Phú.
THAY LỜI TỰA
Sống trong vũ-trụ, đã là vật hữu-hình tất nhiên phải có sanh diệt, có thành hoại. Đó là công lệ của muôn pháp, mà cũng là định-luật bất di bất dịch của cuộc đời. Thì sống, chết, chỉ là lẻ thường, cần gì mà ta phải quan tâm đến?- Có lẽ cũng vì ý nghĩ ấy, nên ngày xưa đức Khổng-phu-tử đã trả lời với học trò mình bằng một câu tuy gọn gàng, nhưng đầy trách móc: “Chưa biết được việc sống, thì đâu biết được việc chết !”. Nhưng sống ở đời trừ những hạng ngu mê vô tri-thức, thiếu học hỏi, thiếu suy nghiệm và những kẻ chỉ biết say đắm theo vật dục, mà không biết đến đời sống của tinh-thần, ngoài ra những kẻ có tri-thức, có học hỏi biết suy nghiệm thì: ngoài những phút hoan lạc, những giờ lo sống, nếu họ muốn nhận chân được ý nghĩa của cuộc đời và xây đấp một hạnh phúc vĩnh viễn cho tương lai chắc họ không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Sanh từ đâu mà đến? Chết rồi sẽ đi đâu và chết rồi đã hết khổ chưa? Muốn tránh thoát những nỗi khổ ở đời thì phải làm thế nào?
– Với những câu hỏi ấy, sẽ làm cho họ phải thắc mắc trong tâm trí; vì đấy là những vấn đề khó khăn chưa có ai giải quyết được một cách rành mạch.
Gần đây ông LIÊU-ĐỊCH-NGUYÊN cư-sĩ ra tập sách: “PHƯƠNG PHÁP LIỄU SINH THOÁT TỬ” này, cũng không ngoài mục-đích để trả lời những câu hỏi như trên. Tập sách nhỏ này, với cái lượng của nó tuy hẹp hòi, nhưng chỉ ngần ấy trang, bấy nhiêu điều mục, nhờ ở cái tài khéo sắp đặt và diễn tả của tác-giả có thể cho ta thấy: về mọi trạng thái, và mọi hành vi, và những ý nghĩ lạ lùng của con người trong khi sắp chết, hay đã chết. Hơn nữa tác giả còn vạch rõ cho ta một con đường để xu-hướng là: áp dụng phương pháp niệm Phật để cứu độ thân trung ấm. Như thế, thì cái lượng của nó tuy nhỏ, nhưng cái phẩm của nó vẫn lớn vậy.
Với những điều đã diễn tả sau đây, chính là những tài liệu mà tác giả đã thu gặt được trong các kinh luận, thật không phải ức thuyết hay bịa đặt. Đọc đến nó các bạn sẽ thấy lắm chuyện ly-kỳ và không khỏi sanh tâm ngờ vực là: hoang đường hay mê tín. Nhưng chúng ta nên biết rằng những cảnh tượng lạ lùng ấy, chỉ là những huyễn ảnh của tâm thức biến hiện, và do năng lực của nghiệp duyên mà cảm thấy đó thôi. Điều đó dùng như câu “Tuy chúng sinh làm, ứng sở tri lượng, tuần nghiệp phát hiện” trong kinh THỦ-LĂNG-NGHIÊM đức Phật đã dạy.
Thật là một quyển sách có giá-trị, và rất cần cho những kẻ sơ cơ trên bước đường tu tập.
Vì nhận thấy lợi ích không phải ít và bổn phận lợi tha thúc dục, nên tôi không quản lời lẽ vụng về, văn chương non nớt, tạm dịch ra đây để cống hiến các chư vị thiện tín, hầu mong ai nấy đồng hiểu đồng tu, đồng được siêu sinh thoát tử.
NAM MÔ SIÊU-LẠC-ĐỘ BỒ-TÁT MA-HA-TÁT BÁO QUỐC ngày 15-11-2512 (Kỷ Sửu)
Dịch giả cẩn chi THÍCH-QUANG PHÚ
Phương pháp liễu sanh thoát tử hay cứu độ thân trung ấm
Hiểu được lẽ sống, thoát ly được sự chết, và sanh về Cực-lạc, tức là bất sanh bất diệt. Nhưng hiểu được lẽ sống và thoát được sự chết, đâu phải là việc dễ! – Đối với Phật pháp, phải có một lòng tin chắc chắn, phải tu-tri có sẵn, hay nhờ có thiện căn trước, đến khi lâm chung gặp được thiện-tri-thức chỉ giáo cho mà chăm lòng niệm Phật. Nhờ thần lực của Phật và Bồ-tát dắt dìu, mà được sanh về thế-giới Cực-lạc phương Tây, hay vãng-sanh về Tịnh-độ ở phương khác. Như thế, vẫn không phải như lời sai lầm của kẻ si-mê trong thế-tục đã nói: “chết rồi là xong”. Bởi vì chưa rõ được việc sống, thì đâu biết được việc chết? Sống rồi chết, chết rồi sống; sống với chết không bao giờ thôi, xoay vần quanh quẩn thì làm sao xong được?
Những người tin Phật, đối với thế tình xem bằng đôi mắt lãnh đạm, xét được kỷ, nhận được sâu, thấu hiểu cuộc đời là khổ, nhân sinh là đáng thương; vì đối thể tình nhận được rõ ràng, mới gọi là hiểu được lẽ sống. Còn thế nào là thoát được sự chết? Tức như chúng ta đang sống đây, không làm việc công hay việc tư, thư nhàn hay bận rộn. Đối với một câu danh hiệu Di-Đà, nếu đem toàn thân mà nương tựa, niệm nào cũng cầu đến Lạc-bang, tâm nào cũng chán nhàm uế-độ. Được thế, thì đến khi chết quyết được vãng sinh; và được thế mới gọi là thoát được sự chết.
Nhưng những kẻ chưa được liễu sinh, chưa chứng thoát tử, thì như trong kinh Phật đã dạy: “Họ phải đi vào giai đoạn Trung-ấm”. Thân Trung-ấm ấy sẽ tuỳ theo sự nghiệp lực mà thọ sinh, thời gian thọ sinh có lâu mau không quyết định. Những điều đã thuật lại trong tập nầy là đem phương pháp niệm Phật mà cứu độ cho thân trung-ấm ấy, được siêu sinh thoát tử, và được sinh về cõi Cực-lạc.
Nay chia ra từng điều mục và thuật lại như sau. Nếu ai xem rồi, chịu tuần tự y theo pháp mà thực-hành cứu-độ, thì sẽ chứng được vô-sinh pháp-nhãn và chắc chắn được liễu-sinh thoát-tử vậy.
THUYẾT-MINH VỀ TRUNG-ẤM
Trung-ấm cũng gọi là trung-hữu; tức như chúng ta khi thân nầy đã chết, thì gọi là tử-ấm cũng gọi là tử-hữu. Đến khi tái sinh thân sau, thì gọi là sinh-ấm cũng gọi là sinh-hữu. Giữa khoảng đã chết và chưa sinh, trải qua trong 49 ngày, riêng có một cái thân thì gọi là Trung-ấm (thế tục gọi là linh hồn, kỳ thật tên tuy đồng, nhưng ý nghĩa thì khác). Nói một cách thiển cận hơn thì sau khi đã rời khỏi chỗ nầy, chưa sinh vào chỗ khác, trong khoảng đã chết và chưa sinh, không dính gì với hai bên, ở giai đoạn trung-gian ấy, thì gọi là trung-hữu, hay thần-thức, tức là trung-ấm vậy. Chỉ trừ những người đã sẵn có tu-trì, và những người chí thiện thì liền thọ sinh; hoặc sinh về Tịnh-độ hay lên thiên-giới. Còn những người cực ác cũng như thế, tắt hơi thở liền đoạ vào ác thú; không vào thân trung-ấm. Ngoài ra phải trải qua giai đoạn trung ấm vậy. (Đúng theo trong kinh thì ý nghĩa của chữ Thân là tích tụ; nghĩa là chứa nhóm; tức như cái thân của chúng ta là do nhiều nguyên nhân chất hoà hiệp nhóm góp mà tạo hành, nên gọi là tích tụ. Thế thì sau khi thân nầy đã chết và chưa thọ thân sau, trong giai-đoạn ấy không thể gọi là thân được. Vì trong đó chỉ có nghiệp-thức mà thôi, chưa có tinh huyết của cha mẹ hoà hiệp, và những nguyên chất để cấu tạo. Cho nên tuy trong giai-đoạn ấy có thể tạm gọi là thân, vì đủ có sự thấy, nghe, hay, biết, qua, lại v.v…, nhưng đó chỉ là cái giá ảnh do nghiệp-thức biến hiện, trong kinh Phật có chỗ gọi là SẮC-CÔNG-NĂNG: là cái sắc thân do nơi chủng-tử của nghiệp-thức mà biến hiện.
Cho nên thân trung-ấm là một trạng thái tinh-tế, không phải có mặt, tai thô tướng như thân nầy, mặc dầu nó vẫn đủ tác dụng thấy nghe hay biết. Thế nên nó có thể xuyên qua tất cả chướng ngại vật, và cũng bởi thế nên ta không trông thấy được).
TUẦN TỰ VÀ TRẠNG THÁI KHI BỐN ĐẠI PHÂN LY
Trong thân người, chất cứng rắn thuộc về đất, chất lưu động thuộc về nước, hơi ấm thuộc về lửa, sự chuyển động thuộc về gió, bốn nguyên chất nầy cùng khắp cả thế-giới nên gọi là đại.
1.- Trạng thái địa đại lấn áp thuỷ đại. – Lúc đó khắp trong thân người, cho đến một lỗ lông; đều có cái cảm-giác nặng nề mỏi mệt xâm lấn vào trong tạng phủ, cho đến trong các lóng đốt, đều cảm thọ sự áp bức chướng ngại đau đớn xâm ngất, không thể tả được. Thế nên biểu hiện những trạng thái: tay chân co rút gân mạch run-rẩy. Đây là những triệu chứng về địa đại lấn áp thuỷ đại vậy.
2.- Trạng thái thuỷ đại lấn áp hoả đại. – Lúc đó, hơi lạnh truyền khắp trong thân thể rồi thấm vào cốt tuỷ thì nội tạng rung động, gan ruột đều giá lạnh, khi lạnh trong ngoài xâm lấn nhau, dù cho lửa lò khó trừ được sự khổ ấy. Tuy nằm trên băng tuyết cũng không thể sánh nỗi một phần trong muôn phần! Bấy giờ bề ngoài nhan sắc nhợt nhạt, hơi thở khò khè, thân mình run rẩy; Đấy là triệu chứng của thuỷ đại áp lấn hoả đại vậy.
3.- Trạng thái hoả đại lấn áp phong đại.- Lúc đó, sinh cơ đã lui mất hai phân nữa, sức chống chọi đã yếu dần, sự khổ lại thêm nhiều, nên phong đại thổi hoả đại, nóng như lửa đốt. Trong thì ngũ tạng, ngoài thì tứ chi, khác nào nung nướng, thứa lòng đốt như bị cắt chặt đau đớn quá nên cứng chơ như lê gỗ. Khi đó hiện ra ngoài nhan sắc ửng đỏ, tinh thần tối tăm, hơi thở ra thì nhiều nhưng hít vào thì ít. Đấy là triệu chứng của hoả đại lấn áp phong đại.
4.-Trạng thái phong đại phân ly.- Lúc đó, thân thể của người bệnh bỗng nhiên cảm thọ một thứ gió mãnh liệt thổi bạt thân thể tan nát như vi-trần, hết sức đau đớn rã rời. Khi ấy bốn đại đều phân ly, sáu căn bại hoại, chỉ còn nghiệp thức (trong nầy nói là nghiệp thức cũng như thông thường nói là thần thức) tuỳ theo nghiệp lực đã tạo lúc sống còn mà thọ sanh.
Xét ra nếu được sanh về Tịnh-độ ở phương Tây thì được nhờ oai thần của Phật A-di-Đà, Ngài đến dẫn đi. Nếu sanh lên thiên-giới thì có chư thiên nghinh tiếp, nhờ ở thiện nghiệp của mình nên khi nghiệp thức bỏ thân được nhiều khoái cảm và không bị những khổ cảnh như trên. Chỉ có một điều rất cần là: gia nhân quyến thuộc phải dè dặt chớ khóc lóc rộn ràng. Vì sợ làm cho kẻ chết bị tình thương lôi quấn, tham đắm theo cảnh thế-gian, chướng ngại cho sự vãng-sinh vậy; cũng không nên gấp rút động đậy như dọn dẹp mền nệm, chùi rửa thay đổi áo quần, cần phải để yên độ 8 tiếng đồng hồ, rồi sẽ tắm rửa thân thể, thay đổi quần áo và nhập liệm. Nếu không như thế, thì khi nghiệp thức chưa hoàn toàn bỏ thân, bị xúc-động phải cảm-thọ sự đau đớn nhân đó mà sinh ra sân hận, tức phải đoạ vào ác đạo.
Lại nên xét kỷ lúc sinh thời của người chết, hoặc tuy rằng tin Phật, nhưng biếng nhác không tu trì. Hoặc chưa đủ tín nguyện thâm thiết, vì nghiệp chướng nặng nề, thì khi lâm chung bị mê mờ, tức là hiểu được người đó chưa được vãng-sinh. Khi ấy nên mời các vị Thiện-tri-thức tu Tịnh-độ tôn đối trước thi thể của người chết, hay đối trước linh sàng của người chết, vì vong linh mà khai thị. Còn gia quyến phải mỗi ngày ba phen luân phiên niệm Phật cứu độ, để dắt dìu cho nghiệp-thức của người chết chăm chú về Cực-lạc, vì khi đó chỗ thọ sinh chưa quyết định, có thể chuyển đổi, nên nếu dùng như pháp mà cứu độ thì có thể trở vọng về chân, chuyển phàm thành thánh một cách dễ dàng.
BAN ĐẦU VÀO CẢNH TRUNG – ẤM
Sau khi người đó hơi thở đã tắt, thần thức rời khỏi thân, nếu chưa liền được giải thoát, thì phần nhiều phải trải qua một trạng thái tối tăm mờ mịt trong một thời hạn lâu đến ba ngày rưỡi hoặc đến bốn ngày rồi sau mới có cái cảm giác minh mẫn, đó là bắt đầu vào cảnh trung ấm. Nhờ ở sự minh mẫn ấy nên có thể ở trong một khoảnh khắc mà thấy được gia nhân quyến thuộc…
Lại nữa, thông thường người chết khi nghiệp thức đã rời thân, thường hay mê muội, nên cứ đắn đo mà tự hỏi: Ta đã chết hay chưa chết? Người đó cũng hay mơ màng mà thấy được thân thuộc, mỗi mỗi đều hiện ra trước mắt, in như gặp nhau trong cảnh mộng.
Xét ra thì trong lúc đó, người chết không tự biết rằng mình đã chết hay chưa chết, thì những thân thuộc nên mỗi ngày ba phen vì họ mà luân phiên niệm Phật, để nhờ oai lực của Phật dắt dìu họ được sinh về Cực-lạc. Như thế dù có có nghiệp duyên cũng không trở ngại được; Ví như mặt trời đã mọc lên, thì phá tan đêm tối. Cũng như thế, trí-tuệ thanh tịnh sáng suốt của Phật có thể tiêu diệt nghiệp lực tăm tối của chúng sinh vậy.
Vả lại trong lúc ấy, nghiệp thức của người chết hoặc đi vào thế giới mới, chính họ cũng đương ngơ ngác, chưa biết mình sẽ đi vào đâu là phải. Thế nên phải nhờ phương pháp niệm Phật để cứu độ cho họ. Phải mời những bậc thiện-tri-thức khai thị cho họ biết xu-hướng về nước Cực-lạc.
Thiện-tri-thức sẽ dùng những lời như sau đây mà khai thị, “Nguyễn mỗ … nếu người đến trên mặt nước hay trước bức gương mà soi thì người sẽ không thấy được diện tượng của người hiện vào nữa, vì thân trung-ấm nầy đã rời sắc thân tứ-đại do huyết nhục tạo nên trong nhân gian. Người nên biết, khi đã vào giai đoạn trung-ấm thân, chỉ có một điều cần thiết là: lúc nầy người không nên nhớ nghĩ việc gì nữa, chỉ nên chuyên tâm niệm Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quan-thế-âm đến cứu độ. Khi đó Phật A-Di-Đà cùng Bồ-tát Quan-thế-âm sẽ cảm ứng mà đến. Mong ngươi phải khéo tự phát ý niệm Phật”.
Thiện tri-thức phải theo như trên đọc ba phen cho rõ ràng mà khai thị. Gia-quyến phải một ngày ba phen luân phiên niệm Phật để cứu độ.
SỰ XUI DỤC CỦA NỖI LÒNG QUYẾN LUYẾN
Thân-trung-ấm trước khi chưa được giải quyết, hay chưa trải qua giai-đoạn đầu thai thì nghiệp thức ấy khi mê muội, khi minh mẫn. Có khi bỗng thấy bà con bạn bè ở vào một nơi nào đó, giống như gặp nhau trong cảnh mộng. Cho nên họ sẽ đến trước các người trong cảnh mộng đó mà nói năng kể lể; nhưng các người đó hoàn toàn không hiểu được. Khi ấy họ buồn rầu không thể tả xiết, giận dữ khác thường. Bỗng nghe người ta gọi đến tên mình mà than khóc; thì liền thấy được bà con bạn bè: Đến một bên thấy xác của mình than khóc, hay thấy được các phẩm vật đã sắp bày trên bàn thờ. Rồi họ sẽ tự lẩm bẩm rằng: “Ta đã chết rồi! Làm thế nào? làm thế nào?” Khi đã sinh ra một niệm ấy, thì tự biết hết sức đau khổ, khác nào con cá bị nướng trong cái lò lửa đỏ! Nhưng đây còn là ở trong sự mờ tối, cho nên khi thấy vợ con than khóc liền đến vỗ về an ủi: “Ta còn đây, không nên khóc!” Nhưng các người than khóc kia cũng vẫn không thôi nghỉ. Khi đó trong lòng họ giận dữ phẩn uất, cho nên vội vàng bỏ đi. Nhưng trong chừng khoảnh khắc, vì lòng ái kiến vọng chấp chưa trừ cho nên vội vàng trở lại, để mong đáp lại sự tức giận khi trước trước đã gặp. Nhưng rồi cũng vẫn không vừa ý những cảnh tượng đã gặp và đã cảm thọ; cho nên vẫn có thái độ như trước. Cứ thế mãi, trải qua đôi ba phen gặp gỡ như thế, nên sự buồn bực dập dờn; càng trải qua càng thêm mãnh liệt. Vì lòng phiền muộn xui dục càng thêm mạnh mẽ, đến nỗi học không muốn suy xét đến cảnh giới lành dữ là thế nào, dù cho có mất giá-trị thế nào, ta cũng không cần mến tiếc. Chỉ cần được thác sinh, để cởi bỏ cái khổ bơ vơ không nơi nương tựa. Những kẻ đầu thai vào ác đạo thường thường đều bởi duyên cớ ấy cả.
“Thân trung-ấm tuy còn luyến ái bà con bạn bè, nhưng ngặt nỗi đã bị cách đời, nên không làm thế nào được, cho nên chớ có một mảy may luyến ái; và dù cho trở lại được sắc thân tứ đại, thì cũng chẳng qua trở lại chịu khổ sinh tử mà thôi. Vậy nên phải dẹp bỏ cái vọng tưởng được sống trở lại; hãy tự yên ổn, chăm lòng niệm Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quán-thế-Âm, để cầu Ngài cứu độ.”
Thiện-tri-thức phải theo như lời đã nói trên mà khai thị. Gia thuộc phải vì họ mà niệm Phật để cứu độ cho họ.
NHỮNG CẢNH TƯỢNG RÙNG RỢN DO ÁC NGHIỆP CHIÊU CẢM
Khi nghiệp-thức đã ở vào giai đoạn Trung-ấm, thì mê rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê, phải cảm thọ những điều không yên ổn, không tự tại. Và có một thứ nghiệp phong mãnh liệt, thổi đưa nghiệp thức đi vào phương hướng vô định; cũng như mảy lông bị gió cuốn: Qua, lại, lên, xuống đều tuỳ theo chiều gió thổi. Cái thân ấy không do ở ý mình, phải phiêu lưu không nhất định. Bỗng nhiên lại gặp một thứ ánh sáng vô cũng mãnh liệt, vùn vụt chớp loè, tia sáng chói loà, không thể mở mắt mà xem được. Ánh sáng ấy, chuyển biến giống như ánh mây mùa thu, hiện ra những hình thái lạ lùng để hăm doạ người đã chết. Và ở trong những chỗ ánh sáng mạnh mẽ và lớn lao ấy đã xuyên qua, phát ra một thứ tiếng rất dữ dội, không có gì sánh kịp. Nó có thể mạnh gấp ngàn lần sấm sét. Một khi nghe đến càng thêm ghê rợn; có thể tan gan nát mật.
Lại có một loại quỷ Dạ-xoa thật là đáng sợ, nắm cầm rất nhiều bình trượng, hầm hét dậm đạp đua nhau mà đến; muốn giết tính mạng của người chết. Bọn ấy rất đông, đánh trước dựt sau, nhảy nhót mà đi đến. Hoặc hiện ra vô số loài ác thú hung tợn rượt đuổi theo sau; hoặc biến làm người tàn ác để áp bức, hoặc làm cuồng phong bão vũ, sấm, chớp, sương mù phủ kín; đem kẻ chết nhốt vào trong đó. Hoặc làm núi lở, bể dậy sấm. Hoặc biến thành luồng lửa mạnh bay đi thiêu đốt. Tất cả những cảnh tượng đã thấy, tiếng tăm đã nghe, làm cho thân trung-ấm khiếp sợ muốn ngất, hoảng hốt không chỗ nương tựa, lại không có đường để tránh thoát, chỉ có cách là mong chờ cuồng phong đưa đẩy để lánh thân mà thôi. Trong thấm thoát lại bị đuổi theo bức áp, rồi chạy đến trên chót núi nhìn xuống thấy có ba cái hố: Một trắng, một đen và một đỏ; hết sức sâu thẳm và lại bị thúc dục, loan nhào đầu xuống, khi đó thân trung-ấm không thể không quay mình tìm nơi ẩn núp. Thế nên chuyển sinh đầu thai làm: Thân rắn, muông, lang, beo, cọp… luôn luôn phải ở trong khổ thú.
Như trên đã thuật nên khai thị: “Biến thành nghiệp phong mãnh liệt, biến làm ánh sáng mênh mông, biến làm tiếng tăm rùng rợn… đều do nghiệp lực mà chiêu cảm. Nếu biết thân trung-ấm không phải là thân huyết nhục, mà chính là cái thân do một thứ vi-tế tứ-đại tạo thành; thì tuy có cuồng phong, lửa cháy, sấm sét… vẫn không thể hại được. Tức như ba cái hố: một đen, một trắng, một đỏ kia, cũng là do ba độc tính căn bản là: Tham dục, sân khuể, ngu si từ nhiều đời nhiều kiếp mà hiện ra đó thôi. Trong khi ấy nên thật nhận rằng: Bao nhiêu ác tướng kia đều do nghiệp-thức biến hiện, nhưng nay vì không may phải trải qua cảnh giới ấy thì chỉ có cách yên lòng không rối loạn chuyên cần niệm Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quán-thế-Âm để cầu Ngài đến cứu độ”.
Thiện-tri-thức phải theo như trên mà khai thị, đại chúng phải niệm Phật để giúp cho họ được tiêu trừ nghiệp-chướng, thì sẽ được sinh về Cực-lạc luôn luôn khỏi các khổ não.
PHÂN PHÁN MÀU SẮC HƠN KÉM CỦA HỒ QUANG
Thân trung-ấm vì trải qua cảnh khổ, nên tự nghĩ rằng: Thương thay! Chỗ cảm thọ của ta vì sao mà khổ thế! Ta sẽ đi tìm chỗ nào có thân thể để sống. “Nhân đó bèn chạy khắp bốn phương, tâm ý tán loạn không chịu dừng nghỉ. Có khi thì ở nơi cầu cống, có khi thì ở nơi miếu vũ yên lặng, và có khi ở nơi các lăng tháp… Nhưng đó chỉ nghỉ tạm trong một lúc chẳng được lâu dài, vì cái sắc thân tứ đại trung-ấm rất nhẹ nhàng, khác hẳn cái sắc thân lúc sống còn thường làm trở ngại. Cho nên khi đó không khỏi buồn rầu tự kết mình bấp bênh, mất chỗ nương tự. Buồn lo quá đỗi, nên tự nghỉ rằng: “Ta nay chỉ muốn được thân người, dù cho phải đổi mất giá thế nào cũng không tiếc”. Cho nên lần lửa tìm lại cái thi thể của mình trước kia, nhưng thi thể ấy, đã bị bà con bạn bè đem bỏ vào hòm, hay đã chôn xuống đất, hoặc đã dùng lửa mà đốt rồi. Vì thế không có thây nào mà nhập vào, nên buồn rầu không xiết. Tâm hồn người lạnh như tro tàn; lo buồn rối rắm. Khi đó liền có những luồng ánh sáng yếu ớt của lục phàm (nhân, thiên, A-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỉ, súc-sanh) bỗng nhiên biểu hiện trong đó tuỳ theo nghiệp lực của kẻ chết cảm-ứng với Đạo nào thì luồng ánh sáng của đạo ấy sẽ càng rực rỡ hơn lên, ánh sáng của đạo người thì hơi vàng, ánh sáng của đạo Địa-ngục thì như khói đen, ánh sáng của đạo Ngạ-quỉ thì hơi đỏ, ánh sáng của đạo Súc-sinh thì hơi xanh.
Lại nữa, các cõi Phật trong năm phương cũng phóng ra những hoá-quang rực rỡ và mạnh như: hào quang sắc xanh chói loà, hào quang sắc trắng trong sạch, hào quang sắc vàng trong bóng như ngọc, hào quang sắc đỏ mãnh liệt. Như thế có rất nhiều thứ hào quang của chư Phật chói loà lẫn nhau. Nhưng vì nghiệp-lực nên kẻ chết sợ hãi những hào quang mãnh liệt của chư Phật đã soi đến, mà chỉ ưa thích những thứ hào quang yếu ớt trong sáu đạo: thiên, nhơn, a-tu-la, địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh đã soi đến mà thôi. Cho nên họ đã đầu thai vào lục đạo, luôn luôn chịu các khổ não.
“Như trên đã thuật, những ánh sáng của lục đạo dịu dàng dễ chịu, nên làm kẻ chết có những cảm giác vừa ý nhưng ánh sáng ấy chính là những ánh-sáng lục-đạo, không nên tham đắm, cần phải tránh xa. Chỉ nên chăm lòng thành kính tự mình phát tâm, phấn khởi tinh-thần mà niệm Phật A-Di-Đà và Bồ-tát Quán-thế-Âm. Phải bỏ cái dễ mà đi đến cái khó, không nên khiếp nhược, phải đi đến chỗ hào-quang mãnh liệt, vì hào-quang mãnh-liệt ấy, là hào-quang chư Phật, hào-quang ân-huệ, hào-quang giải-thoát, là hào-quang vượt phàm thành Thánh. Nếu đem toàn thân mà nương vào trong đó, tức là bước lên cõi Phật, thường thường an vui, xa lìa cái khổ não đắm chìm trong lục đạo.”
Thiện-tri-thức, phải theo như trên mà khai thị, gia thuộc ở trong 49 ngày ấy, theo tuần tự luân phiên mỗi ngày ba phen niệm Phật để cứu độ. Bởi vì thông thường người chết, nghiệp của họ phải trải qua 49 ngày biến vào giai-đoạn trung-ấm. Nếu ở trong 49 ngày đó mà niệm Phật cứu độ, thì quyết định có một ngày nào trong những số ngày ấy, chắc được như pháp mà giải thoát.
SỰ PHÂN PHÁN CỦA CẢNH GIỚI MINH PHỦ
Người ta lúc sống còn làm lành hay làm dữ, đều có quỷ thần xem xét. Nếu việc làm lành, thì có thiên thần coi về việc lành. Nếu làm việc dữ, thì khi đó cũng có ác thần coi về việc dữ ghi lại những việc dữ của mình đã làm. Cho nên thân trung-ấm một phen thấy vị thầy kia, không khỏi hết sức lo sợ khủng khiếp, toàn thân run rẩy, nhưng cứ ngu si mà nói dối rằng: “Tôi chưa từng làm những việc dữ như thế”. Khí đó có quỷ-vương chủ mạng bảo với người chết rằng: “Thì đây, ta có cái gương chiếu nghiệp nầy, ngươi nên soi vào đấy”. Khi ấy tức thì trong gương, nghiệp lành hay dữ đều hiển hiện rõ ràng; cho nên dù có chối cãi cũng không ích gì. Khi đó có kẻ ngục chủ hình dáng dữ tợn, lấy giây buộc vào cổ người tội mà dắt đi, và dùng những cực hình để hình phạt như: Chặt đầu, mổ bụng, moi bụng, hút não, ăn huyết thịt, nhai xương … hết sức đau đớn những vẫn không chết, và sau khi thân thể đã tan nát rồi, dần dần đầy đủ trở lại như cũ và lại chịu cực hình tiếp luôn không ngớt. “Trong khi các vị thần chủ việc lành hay chủ việc dữ hiện ra trước đó đẻ sát hạch tội lỗi, thì không nên sợ hãi, cũng không nên chối cãi, vì phải biết rằng: thân trung-ấm dù phải trải qua bao nhiêu phen tan nát đi nữa cũng không thể chết được, huống chi thật tính của tự thân là không thật có, thì cần gì phải sợ? Tức như bọn ngục tốt kia cũng là nghiệp-thức biến hiện, tự thể của nó là không, cái không mà phá hoại được cái không, thì không đúng với lẽ phải. Nếu khi thấy có quỷ-vương chủ-mạng đến, thì ngươi nên tự xưng với quỷ-vương chính-trực ấy rằng: “Tôi, pháp-danh… quy-y với…”. Thì khi đó dù ngươi có chịu cực hình đi nữa, cũng không tổn hại.”
Thiện-tri-thức phải theo như trên mà khai thị. Đại phải niệm Phật để cứu-độ, thì dù phải trải qua 49 ngày mà chưa được vãng-sinh đi nữa, cũng vẫn có cái khả-năng đắc độ vậy.
NHỮNG PHƯƠNG THỨC LÚC CHUYỂN SINH
Nếu người chết lúc sống còn đối với Phật-pháp chưa đủ sự tín-ngưỡng thâm thiết, thì thân trung-ấm phải trải qua đường lối quanh co, dần dà không quyết định. Vì vọng niệm bồng bột, cho nền dù đã trải qua nhiều phen khai thị, vẫn chưa được vãng-sinh. Bấy giờ thân trung-ấm hoặc gặp phải cuồng phong bão vũ, giá tuyết, mưa đá…, làm cho họ tối tăm mù mịt và có các loài ác thú xua đuổi theo sau, trong nhất thời sắp đến; nếu người nào nghiệp chướng nặng nề, thì sẽ bị hăm doạ, và vì trốn tránh mà đi vào cảnh khổ; còn ai có đủ nghiệp lành thì đi đến chỗ an vui, trong một khoảnh khắc quan-hệ và mau chóng ấy, nếu đời trước họ chưa có công phu tu tập đoạn tâm, thì cảm thấy được hai thân nam, nữ giao-hội, khi đó tà niệm dấy động, sinh lòng yêu ghét, nên tức thì thác sinh. Hoặc thác thai vào các loại súc vật, hoặc thác thai lại làm thân người, tuỳ theo nghiệp lực sai khác của người chết mà cảm thọ. Nếu người nào về nghiệp đàn ông nhiều thì thấy đàn bà liền sinh lòng yêu mến. Còn người nào nghiệp đàn bà nhiều, thì thấy đàn ông liền sinh lòng yêu mến. Khi đó vì cảm thọ sự dục lạc, nên bị tối tăm mà mất cả tri giác. Đấy là thân trung-ấm đã diệt, mà sinh vào thai-sinh hay noãn sinh vậy. Sau khi đã thác-thai vào một loài nào, thì phải trải đủ những thời gian tương đương với loài ấy rồi mới được sinh nở. Nếu phải thác sinh làm thân chó, thì tìm ổ mà nương tựa cho đến lúc khôn lớn. Nếu làm thân một con lợn thì đi đến trong chuồng mà nương tựa cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con kiến, thì bò vào trong hang mà ở, cho đến khi khôn lớn. Nếu làm thân một con trùn, một con giòi, một con nghé, một con dê… đều tuỳ theo nghiệp lực sai khác, đáng sinh về loài nào thì phải sinh về loài ấy, và đều phải trải qua ngày tháng và thọ mạng được bao nhiêu, mỗi mỗi đều được tương đương với loài ấy. Khi đã thọ sinh những thân hình ấy, thì dù muốn tránh thoát, cũng không sao thoát được. Và còn có những nỗi khổ kịch-liệt như đui, điếc, câm ngọng, ngu si, nhơ bẩn, và mặc dầu cho người ta giết hại, sự đau đớn kịch liệt kia không thể kể xiết được.
(Còn có những khổ sở phải sa vào trong ngạ-quỉ, địa-ngục v.v… rộng như trong kinh đã nói. Nếu được may mắn thì sinh lên cõi Trời, cõi Người, và A-tu-la, tức là ba đạo lành. Nhưng các cõi đó đều phải chịu khổ sinh tử luân hồi, không bao giờ thôi nghỉ. Cho nên thiện-tri-thức phải theo những lời sau đây mà khai thị:
“Thương thay! Người làm những ác-nghiệp gì mà bị kết xâu khổ sở như thế. Người từ nhiều kiếp đến nay, phải đắm chìm trong sinh-tử mà chưa được ra khỏi, đều do bệnh căn của ác-tập nầy vậy. Nay đây, nếu không tự cứu-độ, cứ chất-chứa những lòng ghen-ghét thương yêu, thì có khác chi tự mình vào trong bể khổ; trải qua nhiều kiếp không thể ra khỏi đó sao?! Ngươi phải mạnh mẽ mà phấn khởi lên; phải luôn luôn từ bỏ tà niệm thương ghét rất đê-tiện ấy đi, đừng để sinh khởi làm nhơ-nhớp tâm niệm, người phải tự trách, tự răn mình như thế, phải lập thời thệ-nguyện mạnh mẽ, quyết định không dối mình. Cho nên trong kinh đã nói: “Chí có lời thệ-nguyện mới có thể đóng bít được thai-môn mà thôi”.”
CHUYỂN SINH LÊN THIÊN GIỚI
Vì cái niệm cầu sinh của người chết quá bồng bột, dù đã trải qua nhiều phen khai thị, cũng vẫn không trừ được lòng huyễn-vọng ấy, cho nên vẫn chưa được vãng-sinhTịnh-độ. Khi đó thân trung-ấm vì nhờ sức thiện nghiệp mà thấy được cảnh giới chư Thiên (các cõi trời) bào là kỹ-nữ trang-nghiêm chơi bời vui thú, biết bao cảnh-tượng đẹp tươi. Khi đó sinh lòng ưa thích, vội-vàng đi đến. Vả có thiên-thần đem thiên-y (áo của trời) và kỹ nhạc đến rước. Bấy giờ bà con tống-táng, dù có than khóc thảm-thiết đến đâu cũng không thể làm lay chuyển lòng họ; trái lại ta thấy người chết vẫn mỉm cười hớn-hở, nhan sắc tươi vui. Vì tâm của Trung-ấm thân đã duyên vào cảnh giới vui-vẻ của chư Thiên, cho nên người đời dù than-khóc thảm-thiết, họ cũng không nghỉ đến. Nhưng nếu sinh-ấm (thân sau) chưa thành, thì thân-thuộc khóc than còn có thể lôi kéo được lòng họ. (Sinh lên Thiên giới tuy là vui sướng hơn ở nhân-gian, nhưng cũng vẫn còn trong vòng tam-giới: Dục-giới, sắc-giới và vô-sắc-giới, chưa khỏi luân-hồi, thì cũng không khỏi được cái khổ hoả-trạch (ví dụ sự khổ trong ba cõi cũng như lửa nung nấu, nên gọi là hoả-trạch) sao bằng sự vui vô-lậu hoàn-toàn ở Tây-phương Cực-lạc!)
CHUYỂN SINH VỀ BỐN CHÂU
Thân trung-ấm đủ có cái thông-linh không thể nghỉ ngợi, thông-linh ấy, chính do nghiệp lực của trung-ấm mà cảm được, có thể ở trong một chốc lát, đi khắp cả bốn đại châu: hoặc quanh núi Tu-Di mau chóng hơn trong khoảng một phen cánh tay co duỗi. Tuỳ theo ý muốn, mống niệm liền đến; cho đến đủ có những huyễn pháp biến hiện.
1) Sinh về Đông-thắng thần-châu. Nếu thân trung-ấm được cảm sinh về Đông-thắng thần-châu, thì liền thấy biến thành một cái hồ, trong đó có những chim hồng, chim nhạn, kết thành bầy lũ, trống mái đuổi nhau dạo chơi trên mặt nước. Nếu kẻ chết đi đến chỗ ấy, tức là sinh về Đông-thắng thần-châu. (Cần phải cẩn thận chỗ khởi tâm, phải cương quyết chở đi đến châu ấy; vì đến châu ấy, dù được an vui, nhưng đắm trước theo sự an vui đó, làm xao lãng chỗ tấn tu, thì không thể siêu sinh thoát tử được, cho nên không nên đến).
2) Sinh về Nam-thiệm bộ-châu. (Nghĩa của nó là thắng-kim; vì ở châu nầy có thứ kim-sắc đặc biệt), thân trung-ấm nếu được cảm về Nam-thiệm bộ-châu, thì cảm thấy hiện ra những cung điện huy hoàng của châu ấy, thấy như vậy tức là sẽ sinh về Nam-thiệm bộ-châu. (Nếu ai chưa hết ý-niệm cầu sinh thì nên cầu sinh về châu nầy; vì ở đây hiện có Phật pháp lưu hành, vẫn có thể tu trì mà siêu thoát).
3) Sinh về Tây-ngưu hoá-châu. (Cõi nầy buôn bán đổi chác đều dùng bằng trâu, không dùng đến tiền tệ), thân trung-ấm nếu sắp được cảm sinh về Tây-ngưu hoá-châu thì sẽ thấy có một cái hồ, hai bên bờ có trâu gặm cỏ, thấy như vậy tức là sẽ sinh về Tây-ngưu hoá-châu. Châu nầy tuy là giàu có thật, nhưng cũng không nên đến; vì sự giàu có hay làm tăng trưởng tham tâm, mà phế bỏ đạo nghiệp; cho nên không nên đến).
4) Sinh về Bắc-cu-lô-châu. (Châu nầy gọi là thắng-xứ; vì ở đây sung sướng như cõi Trời). Thân trung-ấm nếu được cảm sinh về Bắc-cu-lô-châu, thì sẽ thấy có một cái hồ, và trên bờ cũng có các loài súc vật và cây cối… thấy như vậy tức là sẽ sinh về Bắc-cu-lô-châu. (Châu nầy tuy sống lâu và sung-sướng nhưng ở đây không có Phật Pháp lưu hành thì càng không nên đi đến, mà cần phải trở lại gấp).
Thiện-tri-thức, nên đối trước linh-sàng, theo như trên mà khai thị, để cho họ biết mà lựa chọn thân sau. Trung-ấm-thân mặc dầu rong ruổi ở chốn xa xôi, nhưng một khi kêu gọi thì lập tức trở lại; vì họ đủ có thần-thông nghiệp lực hữu lậu, và những khả-năng đặc-biệt có thể ghi nhớ những điều đã trải qua và hiểu rõ được sự lý. Lúc sống còn, tuy là tay mắt không minh mẫn, nhưng lúc nầy thì tính thấy, tính nghe đều minh mẫn hơn, ngặt nỗi nghiệp duyên lôi cuốn nên không khỏi trở vào sinh tử. Lại nữa, thân trung-ấm đã thoát khỏi sắc thân huyết nhục không còn là sắc thân thô ngại nữa; cho nên dù là đất, đá, gò, nhà cửa cho đến lớn như núi Tu-Di cũng không qua được. Chỉ có Pháp toạ kim-cang của Phật và tử-cung trong thân mẹ thì không thể qua khỏi; vì một khi đã vào trong tử cung, tức thành thân sau vậy.
Xét trong Mật-giáo có nói về cách thức chọn thai rất hay, cho nên thiện-tri-thức phải theo như sau đây mà khai-thị cho kẻ chết: “Ngươi hãy lắng nghe! vì ngươi cũng có ít nhiều thần thông, thì nên đi khắp trong các châu mà xem xét; nếu thấy châu nào có Phật pháp lưu hành thì nên đến đó thọ sinh. Nếu sẽ do nơi vật bất-tịnh giao-cấu mà xuất sinh (bất tịnh: chỉ chỗ tinh huyết của mẹ cha) thì ngươi liền cảm giác được một thứ hương vị, nghe rồi sinh lòng ưa đắm; tức là bị nó hấp dẫn vào trong thể chất bất-tịnh mà thác thai. Cho nên trong khi đó, dù có sắc tướng gì hiện ra trước mắt ngươi (đây chỉ chong trạng thái trong thai) thì ngươi không nên khởi lên cảm giác để phân biệt về sắc tướng của vật đó. Như thế đã không nên có tham tưởng, cũng không nên sinh lòng ghen ghét vì thông thường thiện-thai hay nhận lầm là ác-thai, và ác-thai nay nhận lầm là thiện-thai. Thấy thiện-thai cũng không nên sinh lòng ưa đắm, thấy ác thai cũng không nên sinh lòng chán nhàm, chỉ phải một lòng an trú nơi cảnh vô phân biệt. Nếu trái lại thì bị hoặc nghiệp tà niệm mà phải đoạ vào súc sinh. Bởi vậy trong khi có thai tạng nào hiện ra trước mắt ngươi thì ngươi cứ yên tâm không nên lo lắng, cần phải chăm lòng quy-y Tam-bảo (Phật Pháp Tăng), phải khởi lên ý niệm như sau nầy: tôi nay phát nguyện, nguyện làm vị thế vương hay làm Bà-la-môn hoặc làm con vị trưởng-giả vĩ-đại, hoặc làm con bậc Tất địa thành tựu là giòng giõi trong sạch không nhơ bẩn đủ có chính tín về Phật Pháp và có đại phúc đức có thể làm lợi ích chính sinh, bởi thế cho nên tôi nguyện sinh vào những giòng giõi ấy.
Phát nguyện xong, đợi đến khi thấy được hào quang sắc trắng của chư Thiên hay hào quang sắc vàng của loài người; trong đó những cung điện quý báu nhà cửa đồ sộ, cho đến vườn tược v.v… thì ngươi hãy buông lòng mà đi thẳng vào trong đó chớ có đoái hoài. Được vậy, thì được sinh vào thiên đạo. Thiện-tri-thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen.
(Nếu phải thác sinh vào nhà hạ tiện, thì người chết sẽ nghe có bao nhiêu tiếng tăm rộn ràng ức hiếp, và thấy thân mình đi vào trong cảnh bụi rừng lau sậy, những cảnh không vừa ý. Như sinh vào nhà tôn-quý thì sẽ thấy hoàn toàn yên lặng, hoặc nghe thấy mình được bước lên cung điện ở vào những cảnh tượng vừa ý vậy).
Người chết thường vì nghiệp duyên nên gặp phải rất nhiều cảnh tượng nguy hiểm như: tối tăm, bảo táp, sấm sét, sương mù v.v… khi đó khiếp sợ quá đỗi nên phải tìm phương trốn tránh bỏ thân mạng mà tuông chạy, thì lại thấy ở trước mắt: núi, đèo, hang hố, cây cối bụi rừng. Vì muốn vội vàng tránh thoát cho khỏi, nên không rảnh rang để lựa chọn chỗ nào; chỉ biết được núp vào chỗ nào tức không muốn ra khỏi. Vì sợ rằng nếu ra khỏi tức là bị khổ. Chỉ vì tỵ nạn nên không muốn ra, nên rốt cuộc không ngờ mình đã trở lại thọ thân hèn hạ và chịu rất nhiều đau khổ. Nay hãy đem tình trạng khi đã trở vào ác thú mà lược thuật như sau:
Nghiệp-thức của kẻ chết, nếu sắp sinh vào đạo A-tu-la thì sẽ thấy: có những vườn cây khả ái và những vầng lửa lẫn lộn chuyển xoay. Nếu thấy cảnh tượng ấy mà sinh lòng vui vẻ đi đến đó, tức là đầu thai vào đạo A-tu-la.
Nếu nghiệp cảm của kẻ chết sắp sinh vào đạo súc sinh thị họ tự cảm thấy có những núi non hang hố, hay có những vực sâu hiện ra trước mắt; nếu muốn đi vào trong đó, tức là đầu thai vào đạo súc-sinh.
Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sắp sinh vào đạo Ngạ quỷ thì họ tự thấy có một bãi sa-mạc không cây cối, hoặc có những hang hố cỏ cây khô héo… đấy là cảnh tượng của ngạ-quỷ, nếu sinh vào trong đó thì luôn luôn đói khát và hết sức khổ sở.
Chủng loại của quỷ thú rất nhiều, không thể kể xiết được. Nhưng đại khái có thể chia làm hai loại là: quỷ có oai-đức và quỷ không có oai-đức. Quỷ có oai-đức, cũng gọi là quỷ có thế lực; vì đã có thần-thông lại giàu của cải. Tuy ở trong loài quỷ nhưng không bị đói khát. Như quỷ Dạ-xoa quỷ Cưu-bàn-trà. Loài không có oai đức thì đại khái chia làm ba loại:
a/ loại ít đói như quỷ hy-tự (mong cầu người ta thờ cúng), quỷ hy-khí (mong cầu đồ vật người ta vất bỏ để mà ăn).
b/ Loại đói nhiều, như quỷ chàm-mao (lông hôi thối), quỷ đại-anh (thân đầy lở lói).
c/ Loại hoàn-toàn đói như quỷ cự-khẩu, quỷ châm-yết: cổ như kim, xú-khẩu: miệng rất hôi thối). Đến như loại quỷ có oai-đức, vì đời trước có làm việc bố-thí cho nên khi chết cảïm được đón rước long trọng và hưởng thọ cảnh vui, như khi ở đời được làm quan tước, lấn áp nhân dân, trị dân không đúng phép, nhưng biết đem của cải mà bố-thí; thì chết rồi đoạ vào loài quỷ mà làm quỷ Cưu-bàn-trà. Quỷ ấy có thể biến làm cảnh giới ngũ-trần vui sướng để hưởng thọ. Còn những kẻ tính tình hay giận hờn, say đắm rượu thịt, nhưng lúc sống còn hay làm việc bố-thí thì sau khi chết rồi, đoạ vào loài quỷ Địa-hành doạ-xa (địa hành: đi đất) luôn luôn được nghe những âm-nhạc vui vẻ và được ăn uống (như trong kinh Chính-pháp niệm-xứ đã nói rõ, ở đây không thể chép hết được).
Nghiệp cảm của người chết nếu sẽ sinh vào địa-ngục thì bấy giờ bỗng nghe có những khúc ca hết sức bi ai buồn bã; nếu họ đi vào trong cảnh ấy, thì thân không được tự do, hoặc bị xua đuổi vào trong đó mà không có cách gì ngăn cản được. Trong cảnh ấy (địa-ngục) mịt mù tối tăm, nhà cửa hoặc sắc đen hay sắc trắng. Dưới đất thì có hang hố sâu thẳm, đường xá mịt mờ, hoặc là bị những luồng lửa nung đốt, hoặc bị giá lạnh ngâm thân; có vô số điều khổ sở, chịu khổ ở trong ấy cũng trải qua nhiều kiếp nhiều đời, chẳng biết đến bao giờ ra khỏi được.
Nếu nghiệp cảm của người chết sẽ sinh vào địa-ngục, thì cảm thấy trong thân mình như bị gió lạnh lùng áp bức. Và họ tự thấy: Những ngọn lửa bồng bột của địa-ngục bốc lên, vì ưa sự ấm áp nên vội đi vào trong đó. Nếu kẻ chết sẽ sinh vào cảnh dịa-ngục đại hàn, thì trước hết cảm thấy trong thân mình như chạm phải luồng gió nóng, hay bị lửa hồng nung đốt, cho nên khi hơi mát trong địa-ngục Đại-hàn bốc lên, thì họ cảm thấy sảng khoái dễ chịu. Vì ưa mát mẻ vội vàng đi vào trong cảnh ấy, tức là bị bó buộc không thể nào tránh thoát được nữa. Lại nữa, nếu lúc đang sống còn, trong khi gây nghiệp, thường có bạn bè giúp đỡ; thì khi lâm chung sẽ thấy bạn bè đồng nghiệp với mình ngày trước hiện ra trước mắt. Khi đó vì xúc động đến cảm-hứng ngày xưa nên vội vàng chạy đến trong cảnh đó. Nhưng khi đã đến rồi thì cảnh ấy hoàn-toàn thay đổi và phải chịu mọi điều khổ sở.
“Trong khi thấy những cảnh tượng như trên, phải tự giữ vững tâm chí, chớ nên vội vàng đi đến, cần phải chăm lòng cung kính đức Phật A-di-Đà bên thế-giới Cực-lạc để cầu ngài đến cứu-độ cho mình là hơn.”
Thiện-tri-thức phải theo như trên mà khai thị bảy phen, để cho họ được vãng-sinh Cực-lạc. Bởi vì thân trung-ấm có được tính ghi nhớ phi thường, so với lúc sống còn có thể mạnh hơn gấp mười. Tuy khi đang sống còn chỉ là tầm thường ngu độn, nhưng khi đã vào giai đoạn trung-ấm thì nhờ nghiệp lực mà có cái sáng suốt phi thường. Cho nên Thiện-tri-thức nên theo như những lời trên mà khai thị, thì quyết định có công hiệu. Nhưng hoặc thời họ chưa đủ tín nguyện để xu hướng về Tây-phương, song nhờ ở sức niệm Phật, cũng có thể cải tạo được ác thú mà sanh lên nhân-đạo hay thiên-đạo. Cho nên công đức niệm Phật quyết không luống uổng.
CHUYỂN SINH VÀO LOÀI BÀNG SINH
Nghiệp cảm của kẻ chết nếu sẽ sinh vào loài bàng sinh, thì đại-khái có thể chia ra bốn loài là: Thai, noãn, thấp, hoá.
1.- Đoạ vào thai sinh và noãn sinh – nếu người nào lòng xan-tham tật-đố nặng nề, thì sẽ đầu thai làm thân các loài như: chó đói… (thai sinh). Còn ai lòng sân-hận quá nặng, thì đoạ làm loài rắn rết bò cạp… (trong các loài nầy hoặc thai-sinh hoặc noãn-sinh không nhất định). Còn người nào lòng dâm dục nặng nề, thì đoạ làm loài uyên ương chim tước, chim cáp v.v… (Vì những loài nầy dục tính nặng nề lắm). Cho đến người nào tính hay ưa chơi bời lung lạc, thì đoạ làm loại vượn loài khỉ v.v… (thuộc về thai sinh).
Tóm lại, cội gốc của tội lỗi là do ở ngu si mà ra. Lại nữa, có khi đối với chỗ mình sẽ sinh đến, thì bỗng thấy những loài hữu tình đồng loại vừa ý, nên vội vàng chạy đến. Tuy trong các loài nầy cũng nương theo nhân duyên hoà hiệp của cha mẹ mà đầu thai, nhưng những điều-kiện câu thúc so với nhân đạo thì có phần giản dị hơn nhiều; cho nên rất dễ đoạ vào.
2.- Thấp sinh. – Loài thấp-sinh (là nương vào chỗ thấp khi mà được sinh thân) thì có khi vì ngửi được hương vị của chỗ mình sắp đến thọ sinh, sinh lòng ưa đắm, mà liền đến nương vào đó để thọ sinh (Hương vị: đại khái như chỗ ẩm thấp, bùn lầy nhơ nhớp, lấy cái đó làm tự thể. Trong đó không có tính huyết của cha mẹ hoà hiệp). Đi đến nương vào chỗ ẩm thấp để thác sinh hoặc là bạ vào vật gì mục nát, hoặc là phân bón v.v… tuỳ theo nghiệp lực của mình mà đến gần gủi ưa đắm thác sinh.
3.- Hoá-sinh.- Tức như loài rồng và loài chim kim-si, cũng là gốc ở trong bốn loài: thai, noãn, thấp, hoá mà ra; nhưng nó là loài hoá-sinh đặc biệt. Sự hưởng thọ của nó sung sướng như các cõi Trời.
Trung-ấm-thân nếu thác sinh trong loài nầy, thì được cảm-thọ cảnh giới sung sướng, đồng như cõi trời không khác. (những loài nầy còn thuộc về súc sinh, nó là một trong ba ác đạo; vẫn không khỏi sinh tử luân-hồi và chịu nhiều khổ não khác).
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN PHẢI ĐỦ TRONG KHI TIẾN BẠT
Y theo trong Mật-giáo (Các kinh điển về Mật-tông) để nói, thì thành tựu Bồ-đề có thể chia ra ba bực:
1. THƯỢNG CĂN, thì tức thời thủ-chứng (thành Phật)
2.- TRUNG CĂN, thì sau khi chết rồi mới được siêu thăng.
3.- HẠ CĂN, thì đi vào giai đoan trung-ấm mới được thành tựu. Cho nên nếu thân thuộc biết vì họ mà làm những việc công-đức thì chắc chắn có công hiệu, nhưng phải lấy niệm Phật làm chủ. Vì thân trung-ấm đủ có thần thông hữu lậu, cho nên sau khi đã trải qua nhiều cảnh tượng hãi hùng hăm doạ, áp bức; họ sẽ tự nghỉ rằng: “Có những pháp lành gì để cứu ta được ra khỏi?”. Bởi thế nếu lúc đó có người chỉ bảo cho họ niệm Phật để cầu siêu thăng, thì họ sẽ hết lòng vâng lãnh vui thích ưa nghe, cho nên hiệu lực không thể tưởng tượng. Nhưng cần phải đúng ba điều kiện sau đây:
1.- TRAI GIỚI, cả nhà ai nấy đều phải nhất luật giữ gìn trai giới, dù có khách khứa cũng không được thiết đãi rượu thịt; ngoài ra các thứ ô uế khác đều phải dè dặt giẵ gìn.
2.- THÀNH KHẨN, đối với kẻ chết phải hết lòng thành kính, nghỉ nhớ để cầu cảm thông, không nên chỉ trang sức bề ngoài mà thôi, và cũng không nên giao phó công việc ấy cho kẻ khác làm. Theo như trong bộ bút ký của ông đồ Trường-Khanh đời Tống có chép: “Ở Thông-châu có ông Tư-Mã Dưỡng-Khiêm, đã từng vì vong Phu-nhân (tức là người vợ chính đã chết) mà làm rất nhiều Phật-sự. Nhưng vài năm sau người tiểu thiếp của ông, một hôm bỗng chết, cách một đêm mới tỉnh lại, mà than khóc bảo với Tư-Mã rằng: “Thiếp chết đi vào nơi Minh-phủ, thấy vong phu-nhân bị giam trong một ngục tối, phu-nhân nói với thiếp rằng: “Ở đây khổ sở không thể nói được. Vậy xin gấp gấp vì tôi mà làm việc công-đức để cứu độ”. Thiếp hỏi: “Vậy sau khi phu-nhân đã chết rồi, Tướng-công đã từng vì Phu-nhân làm nhiều Phật-sự, đều là vô ích cả sao?” Phu-nhân đáp: “Chính thế. Vì việc tụng kinh sám-hối vẫn phải chọn những nhà sư hữu-đạo, gia chủ phải trai giới chí thành thì mới có thể diệt tội thêm phúc được. Nhưng đây thì trái lại; trước kia thầy Sa-môn thì tụng kinh nhà trên, mà Tướng-công thì đánh cờ nhà dưới, như vậy thì có ích gì?” Tư-Mã nghe nói cũng khóc oà lên. Và sau đó mới chọn những danh sư có giới đức, sửa sang rất chỉnh đốn, làm Đạo-tràng luôn ba đêm ngày”. Đấy chính là những việc Trường-khanh đã mục kích. Mà cũng là việc của kẻ con hiền chảu thảo phải nên biết vậy.
3.- TUYỂN TRẠCH, đối với Pháp-sư phải chọn những bậc đạo hạnh chân chính mà cầu thỉnh; ngoài ra những hạng phóng đãng phá giới và chỉ biết nhìn đến tài lợi mà thôi thì đều không nên cầu thỉnh vậy.
Những hạng Pháp-sư đối với giới luật tịnh hạnh cong thiếu phạm, hoặc hoài nghi không đứng đắn và ngông cuồng… thì trung-ấm thân vì đã có thần-thông, cho nên họ biết đó là lừa gạt họ; tức là họ sẽ thất vọng mà sinh ra hối hận. Vì hối hận nên sinh ra tức giận rồi phải đoạ vào khổ thú. Cho nên Thiện-tri-thức phải dùng những lời sau đây mà khai thị: “Phải biết rằng thân của bậc Tăng-Già tên… tức là thân của Phật. Người phải khởi ý tưởng rằng chỉ nương theo pháp chứ không nương theo người. Mặc dầu người tác pháp đó có lầm lẫn thế nào, đều là do cái lỗi của ý thức nơi ta chưa được trong sạch đó thôi. Tỷ như người soi gương, vì mặt mình không sạch, nên cái bóng trong gương cũng nhơ bẩn. Vậy thì biết chắc rằng sở dĩ khi tác pháp có sai lầm, đều do tâm niệm của ngươi chưa trong sạch vậy. Ngươi nên khởi tưởng như thế, và phải hết lòng cung kính ái mộ thì làm phúc gì cũng đều biến thành Phật sự thanh-tịnh và vẫn không mất lợi của chúng mình.”
Trong gia quyến nếu muốn rước Pháp-sư để làm Phật sư, thì nên đối trước bàn linh mà chỉ giáo bảy phen như thế thì dù trong khi làm Phật sự có đôi chút sai lầm, cũng vẫn được lợi-ích.
VÃNG-SINH VỀ TỊNH-ĐỘ
Những hạng đã sẵn có tu theo Tịnh-nghiệp, thì khi lâm-chung họ liền đi đến chỗ họ muốn đến, tức là vãng-sinh Tịnh-độ. Không còn phải trải qua những cảnh giới như trước đã nói. Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết vì họ mà niệm Phật thế, thì cũng có thể tăng thêm phẩm-vị không đến nỗi uổng công.
Đến như việc vãng-sinh Tịnh-độ, thật ra thì Tịnh-độ trong mười phương đều nên vãng-sinh; nhưng chỉ có thế-giới Cực-lạc là có cơ duyên đặc biệt với chúng-sinh… xưa nay số người được vãng sinh không thể kể xiết. Trong khi vãng-sinh thì chỗ cảm thấy có nhiều cách, nay nương theo kinh Quan-vô-lượng-thọ mà chia làm chín phẩm, để thuật lại như sau:
1.- THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SINH, thì cảm thấy có Tam-thánh (Di-Đà, Quán-Âm, Thế-Chí) và vô số hoá Phật, trăm ngàn đại-chúng Tỳ-Kheo, và vô số chư Thiên cùng cung điện thất-bảo hiện ra trước mắt; dùng đài Kim-cang đem đến để đón tiếp. Khi đó liền sinh về Cực-lạc, được nghe Phật nói pháp, chứng được Vô-sinh-pháp-nhẫn. Sau đó tuỳ theo ý mình mà đi khắp mười phương Phật-độ, và theo thứ tự được Phật thọ-ký.
2.- THƯỢNG PHẨM TRUNG SINH, cũng cảm thấy có Tam-thánh và vô số Đại-chúng làm quyến thuộc doanh-vây, dùng đài Tủ-kim đến đón rước. Thấy rồi liền được sanh về trong ao thất-bảo bên cõi ấy; trải qua một đêm thì hoa mới nở, và được thấy Phật.
3.- THƯỢNG PHẨM HẠ SINH cũng cảm thấy có Tam-thánh và các vị Bồ-tát năm hoa sen vàng chung cùng với các vị hoá Phật đi đến đón rước. Thấy rồi liền được sinh về trong ao thất-bảo bên cõi kia; trải qua một ngày một đêm hoa sen mới nở, và phải nở trong thời hạn bảy ngày mới được thấy Phật.
4,- TRUNG PHẨM THƯỢNG SINH, được cảm thấy Phật A-Di-Đà và các vị Tỳ-Kheo làm quyến thuộc doanh-vây; phóng ra hào-quang sắc vàng, hiện ra trước người đó để tỏ lời khen ngợi. Người ấy sẽ ngồi trên đài Liên-hoa mà sinh về Cực-lạc. Sinh rồi hoa sen liền nở, được nghe pháp-âm nhiệm-mầu, chứng được quả A-la-hán (A-la-hán: Nghĩa là Bất sinh: Không còn luân-hồi sinh-tử).
5.- TRUNG PHẨM TRUNG SINH, cũng thấy có Phật A-Di-Đà cùng các quyến thuộc phóng ra hào quang sắc vàng; nắm hoa sen thất-bảo đi đến đón rước. Người chết thấy rồi liền sinh về trong ao Thất-bảo trong cõi ấy; trải qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi đó khen ngợi đức Di-Đà Thế-tôn, nghe pháp sinh lòng vui vẻ và chứng được quả Tu-đà-hoàn (Tu-đà-hoàn: Nhập-lưu, tức là đã được vào hạng Thánh).
6.- TRUNG PHẨM HẠ SANH, căn-cơ của hạng này rất kém, chỉ nhờ nghe lời Thiện-tri-thức chỉ giáo, mà vui vẻ tin và thực hành; cho nên khi lâm-chung chỉ nhờ ở nguyện lực mà thôi, chứ không thấy được cảnh gì. Nhưng khi đã sinh về cõi ấy, trải qua bảy ngày mới được gặp hai vị Bồ-tát: Quán-thế-âm và Đại-thế-Chí, được nghe pháp âm, rồi cũng chứng được quả Tu-Đà -Hoàn.
7. HẠ PHẨM THƯỢNG SINH, thì cảm thấy hoá-thân của Phật, và hoá-thân của đức Quán-thế-Âm và Đại-thế-Chí đến rước mà thôi; nhưng cũng được nương trên hoa sen Thất-bảo, theo hoá-thân mà sinh về trong ao Thất-bảo bên cõi ấy. Trải đến 49 ngày hoa nở và được hai vị Bồ-tát ấy nói pháp cho nghe. (Hoá phật: tức là hoá thân của Phật; là một trong ba thân của Phật). 8. HẠ PHẨM TRUNG SINH, thì trước hết thấy có lửa dữ trong địa ngục bốc lên sau lại bỗng hoá thành luồng gió mát để nâng đưa Thiên-hoa; trên hoa ấy có hoá Phật và Bồ-tát đi đến đón rước người ấy. Khi đã sinh về trong ao thất-bảo bên cõi ấy rồi, phải trải qua 6 kiếp mới được hoa nở, và thấy hai vị Bồ-tát nói pháp cho nghe. (Kiếp, nói cho đủ là kiếp-ba; 6 kiếp tức là 6 thời hạn).
9. HẠ PHẨM HẠ SINH, thì thấy có hoa vàng như vầng mặt nhật hiện ra trước mắt, khi đó liền được vãng-sinh. Sinh rồi phải ở trong hoa sen đủ 12 kiếp, mới được hoa nở và được thấy hai vị Bồ-tát nói pháp cho nghe.
Ba loại vừa nói trên đây (tức là HẠ PHẨM THƯỢNG SINH) đều do Thiện-tri-thức chỉ giáo mà phát tâm niệm Phật và tự mình biết sám-hối mà cảm thấy được. Nói tóm lại, tuỳ theo trình-độ và năng-lực mà chia ra có chín phẩm cao thấp không đồng nhưng khi đã được sinh về Tịnh-độ; thì đều được khỏi sinh-tử luân-hồi và hoặc chậm hoặc mau đều thành Phật quả vậy.
NHỮNG TIÊN TRIỆU ĐƯỢC SINH VỀ TỊNH ĐỘ
Bậc đã được vô-sinh pháp-nhẫn (tức là chứng được thực tính bất diệt của muôn pháp) thì đối với Tịnh-độ trong 10 phương, đều có thể tuỳ theo ý muốn của mình mà vãng-sinh. Còn những kẻ phàm-phu hoặc nhờ nguyện lực của mình, hay nhờ thần lực của Phật gia bị mà được sinh về Tịnh-độ; thì đều thuộc về hạn “ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SINH” (Nghĩa là nhờ ở nguyện lực của Phật mà được sinh về Tịnh-độ, nhưng chưa trừ sạch hoặc nghiệp; nên gọi là ĐỚI NGHIỆP VÃNG-SINH). Hai cảnh giới nầy tuy có cao thấp không đồng nhau nhưng chỗ siêu-việt cảnh giới Ta-bà thì vẫn là một.
Những tiên triệu trong khi lâm chung tuỳ theo mỗi người mà cảm thấy có khác nhau; nhưng không ngoài tịnh-cảnh hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng thì thấy có y-báo, chánh-báo trang-nghiêm đều đầy đủ. Hạng kém hơn thì chỉ thấy Phật và Bồ-tát. Hạng kém hơn nữa, thì chỉ thấy hoa sen. Nhưng những tiên triệu ấy, đều không dính dấp gì với mọi người chung quanh, nên họ không thấy được. Nếu nói đến những tiên triệu mà mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; thì những di-tích vãng-sinh của các bậc thánh-hiền xưa nay ta có thể khảo-cứu mà chia làm 10 món thoại ứng:
1/ NHẤT TÂM BẤT LOẠN: Tâm niệm được chăm chú vào một cảnh.
2/ BIẾT TRƯỚC THỜI CHIẾT ĐÃ ĐẾN.
3/ TỊNH NIỆM KHÔNG MẤT, tức là tâm niệm chỉ ưa cõi Tịnh-độ và quyết chi bỏ cõi Tu-bà.
4/ BIẾT TRƯỚC MÀ LO TẮM RỬA VÀ THAY ÁO QUẦN.
5/ TỰ MÌNH HAY NIỆM PHẬT HOẶC NIỆM CÓ TIẾNG HAY NIỆM THẦM. 6/ NGỒI NGAY THẲNG VÀ XẤP TAY MÀ CHẾT.
7/ CÓ MÙI THƠM LẠ KHẮP NHÀ.
8/ CÓ HÀO-QUANG SÁNG SOI VÀO THÂN THỂ.
9/ NHẠC TRỜI TRỖI SÁNG SOI VÀO THÂN THỂ.
10/ TỰ NÓI RA BÀI KỆ ĐỂ KHUYÊN ĐỒ-CHÚNG (đệ-tử).
Nếu cả 10 món điềm tốt trên đây đều được đầy đủ, thì phẩm vị chắc chắn là cao. Còn ai chỉ đủ một vài điềm tốt cho đến 5 điềm tốt mà thôi, thì cũng được vãng-sinh. Đến như khi nghiệp-thức rời bỏ thân này, thì không phải đồng thời toàn thân đều lạnh, có khi ở trên thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh lên. Như có bài kệ đã nói: “Nghiệp lành, dưới lạnh trước; nghiệp dữ trên lạnh trước. Tim còn lưu chút hơi ấm rất lâu, các chỗ khác hơi ấm dần dần hết. Người được xuất-thế thì trên trán lạnh rốt sau. Sinh lên trời, thì nơi mặt lạnh rốt sau. Sinh lên trời, thì nơi mặt lạnh sau. Sinh vào cõi người thì nơi rốn lạnh sau. Sinh vào Ngạ-quỷ thì hai bên bụng lạnh sau. Sinh vào loài Bàng-sinh thì đầu gối lạnh sau ; (Bàng-sinh : Những loài thân thể nằm ngang như trâu, bò v.v… Sinh vào Địa ngục thì dưới chân lạnh rốt sau”. Cứ theo đây chứng nghiệm thì quả báo tương lai của người chết, ta cũng có thể dự đoán mà biết được trước vậy.
(Theo ý-nghĩa trong bài kệ trên đây để giải-thì người nghiệp lành ở dưới thân lạnh trước, là vì nghiệp thức lưu chuyển ở trên ; cho nên dưới thân lạnh trước, trên thân lạnh sau. Còn kẻ ác nghiệp thì nghiệp thức lưu chuyển ở dưới ; cho nên trên thân lạnh trước, dưới thân lạnh sau. Đến như hàng xuất-thế, thì trên trán lưu hơi ấm rất lâu; tức là triệu chứng sinh về Tây-phương vậy).
Về tiên-triệu của các thú, sở dĩ có khác nhau, là vì nghiệp nhân lành, dữ của chúng-sinh gây ra từ trước mà cảm được. Đến khi lâm-chung, thì nghiệp nhân ấy sôi nổi trong tâm thức. Nghệp nào mạnh, thì sẽ lôi vào cảnh-giới khác tương đương với nó để thọ báo. Như nghiệp lành mạnh, thì sẽ hiện ra cảnh-giới sung sướng ; nghiệp dữ mạnh, thì hiện ra cảnh-giới khổ sở.
Cảnh-giới sung sướng là tiên-triệu sinh lên Thiên-thú ; cảnh-giới khổ sở là tiên-triệu sinh vào Ác-thú. Nếu tới trong hai cảnh-giới khổ, vui đó để phân-biệt, nó sẽ lôi ta đi đến đâu, để chia làm từng điều mục mà nói ; thì nương vào kinh THỦ-HỘ-QUỐC-GIỚI-CHỦ để thuật lại những điều cốt yếu như sau đây:
A) Nếu nghiệp-duyên sẽ lôi cuốn vào Địa-ngục, thì sẽ thấy có 15 món tiên-triệu:
1.- Gặp phải con trai, con gái và bà con đều nhìn kẻ chết bằng cặp mắt hung dữ ghét bỏ.
2.- Người chết đưa hai tay lên mà rờ mò giữa hư-không,
3.- Thiện-tri-thức dầu có chỉ bảo, họ cũng không chịu tuỳ thuận.
4- Kẻ chết kêu gào than khóc.
5.- Đi ra đại-tiện và tiểu-tiện mà vẫn không hay biết gì.
6.- Nhắm nghiền đôi mắt không mở.
7.- Thường hay che úp mặt mày.
8- Nằm nghiên mà ăn uống.
9.- Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám.
10.- Gót chân đầu gối luôn luôn rung rẩy.
11.- Sống mãi xiên xẹo.
12.- Mắt bên trái hay động đậy, ta gọi là máy mắt.
13.- Hai mắt đỏ ngầu.
14.- Úp mặt mà nằm.
15.- Thân hình go rút và tay bên trái chắm xuống đất mà nằm.
B) Nếu phải bị lôi vào trong Ngạ-quỷ, thì có 8 mòn tiên-triệu
1.- Ưa liếm môi miếng.
2.- Thân nóng như lửa.
3.- Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống.
4.- Mắt thường trương lên mà không nhắm.
5.- Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ.
6.- Không có tiểu-tiện nhưng đại-tiện thì nhiều.
7.- Đầu gối bên phải lạnh trước.
8.- Tay bên phải thường nắm lại, tức là biểu hiện ôm lòng bỏn sẻn.
C) Người chết nếu bị lôi vào bàng-sinh, thì có 5 môn tiên-triệu:
1.- Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ.
2.- Ngón tay và ngón chân co quắp.
3.- Khắp trong thân mình toát ra mồ hôi.
4.- Tiếng nói ra khò khè.
5.- Miệng thường ngậm đồ ăn.
D) Nếu được sinh vào nhân-đạo thì có 10 món tiên-triệu
1.- Đến khi chết hay khởi niệm lành, tức là lông dịu-dàng, lòng phúc-đức, lòng vui-vẻ, lòng vô tư.
2.- Thân không đau khổ.
3.- Ít sự nói phô, chăm lòng nhớ nghĩ cha mẹ.
4.- Con trai, con gái đều đem lòng thương mếm và gần gũi, coi như việc thường, không ưa không ghét. Tai thường muốn nghe tên họ của anh em, chị em, bầu bạn.
5.- Đối với việc lành hay việc dữ, lòng không lầm loạn.
6.- Tâm tính chính-trực, không đua nịnh.
7.- Rõ biết bà con bạn bè giúp đỡ cho ta.
8.- Thấy bà con chăm sóc sinh lòng vui mừng.
9.- Di-chúc việc nhà, có cất đặt của cải ở đâu thì mách bảo.
10.- Sinh lòng tịnh-tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng đến, để đối diện quy-y.
E) Nếu nghiệp duyên sẽ lôi lên thiên-thú cũng có 10 món tiên-triệu:
1.- Khởi lòng thương mến.
2.- Phát khởi thiện niệm.
3.- Lòng thường vui vẻ.
4.- Chánh niệm được rõ ràng.
5.- Không có những điều hôi hám.
6.- Sống mũi không xiên xẹo.
7. Lòng không giận dữ.
8. Của cải vợ con bà con lòng không lưu-luyến.
9.- Mắt được trong sáng.
10.- Ngửa mặt lên mỉm cười mà nghĩ tưởng thiên cung đến rước ta.
Năm khoảng vừa kể trên đây, không phải nhất định mỗi mỗi đều phải hiển hiện; chỉ có những điều-kiện thiết yếu sẽ được hiển hiện mà thôi. Ta nên xét cho kỹ-lưỡng : Như hai thú Nhân và Thiên, thì ý-thức của họ đều trong sạch, nên gọi là khởi Thiện-niệm. Nhưng một bên chỉ nghĩ đến Thiên-cung mà lãng bỏ việc đời ; một bên thì thương nhớ bà con mà dặn dò việc nhà. Như thế thì rất khác nhau vậy. Còn hai thú Địa-ngục và Ngạ-quỷ, thì ý-thức của họ đều mê man nên hiển hiện ra cảnh khổ. Nhưng một bên thì rất trái với từ hoà, thay đổi thái-độ ; một bên thì nóng nẩy đói khát đáng thương, như thế cũng rất khác nhau vậy. Đến như thú bàng-sanh thì thân thể đã ra mồ-hôi, tiếng tăm khàn nghẹt ; vẫn còn thương tiếc bà con. Như trong […] .Nếu sắp sinh vào loài người, thì có trạng-thái thế này : Đưa tay ra giữa hư-không mà bắt nắm, hoặc để kháng-cự vật gì chướng-ngại, so với tiướng trạng thác sinh vào Địa-ngục thì họ cũng đưa tay lên mà rờ mò giữa hư-không, hai triệu-chứng ấy vẫn là giống nhau. Lại có người đến khi chết thì tâm hồn thành vô-ký (vô-ký : không hiểu lành dữ là thế nào) thì tình hình khổ vui không thể thấy được. Hạng này vẫn là số đông, nếu muốn dự đoán hạng ấy sẽ sinh vào chỗ nào, thì ta phải đợi đến khi bỏ hơi ấm trong thân, mới có thể quyết đoán được. (Nên coi theo bài kệ ở trên kia)
\
CÁCH LÀM VIỆC PHÚC
Cái yếu điểm của việc phúc, phải lấy hạnh bố-thí làm gốc ; hoặc đem di-sản của kể chết thì tốt hơn hết, nếu không thì lấy của cải của bà con bạn bè mà giúp vào cũng được, để làm việc phúc đức ; thì người chết chắc chắn được ích lợi. Như trong kinh VÔ-THƯỜNG đã nói : “Nếu như sau khi tính mạng đã lâm-chung, thì nên lấy y-phục mới […] chết, hoặc lấy những vật thụ dụng của kẻ còn sống ; chia làm ba phần, vì người chết đó mà cúng dường Phật-đà, Đạt-ma, và Tăng-già (Tam-bảo); Nhờ đó mà người chết dù cho nghiệp nặng cũng trở thành nhẹ và được công-đức phúc lợi thù-thắng. Không nên đem những y-phục tốt đẹp mà mặc cho người chết, để đem đi tống táng. Vì sao? – Vì không có lợi ích vậy”.
Đấy là cái lệ thường làm ngày xưa bên Ấn-độ, đến như hiện-đại, thì nên đem di-sản ấy mà đổi lấy tiền tệ ; để dùng trang-nghiêm Phật-tượng, ấn-tống kinh-điển, cúng dường Tăng-già. Và làm những việc như : Tế-bần, phóng sinh, hoặc làm việc gì có ích cho xã-hội.
Nhờ những công-đức làm việc phúc đó, thì người chết dù đọa vào Ngạ-quỷ, cũng được hưởng rất nhiều lợi-ích. Trong kinh Ưu-bà-Tắc có nói : “Nếu người cha chết rồi bị đọa vào trong Ngạ-quỷ, mà người con vì họ làm những việc phúc đức, nên biết người cha liền được hưởng thọ. Nếu được sinh lên trời, thì họ không nghĩ đến vật dụng trong cõi người nữa sao? – Vì trên cõi trời đã được đầy đủ bảo vật thù-thắng vậy. Nếu phải đọa vào Địa-ngục, thì thân họ phải chịu bao nhiêu khổ não, cũng không được rảnh rang để nhớ nghĩ, vậy nên không được hưởng thọ. Đọa vào súc sinh, nên biết cũng như thế. Nếu hỏi tại sao ở trong ngạ-quỷ liền được hưởng thọ lợi ích ; thi vì người ấy sẵn có lòng tham lam bỏn sẻn, cho nên phải đọa vào Ngạ-quỷ. Những khi đã làm Ngạ-quỷ, thường hay hối hận tội lỗi ngày trước, suy nghĩ muốn được lợi ích, bởi thế cho nên được hưởng”.
Đấy là nói rõ chỗ lợi của quỷ thú, còn đối với công phu làm việc phúc thật không luống uổng ; vì không những kể chết được hưởng, mà bà con hiện tại cũng chung phần được hưởng. Như trong kinh nói : “Nếu như kẻ chết đã thác sinh vào các đạo khác, nhưng còn bao nhiêu bà con còn đọa trong Ngạ-quỷ ; nếu có làm việc phúc, tức thì cũng đều được lợi ích. Vậy nên, người có trí, nên vì Ngạ-quỷ mà siêng năng làm công việc công-đức”.
(Trong khi lấy di sản của kẻ chết mà làm việc phúc đức, để cứu độ cho họ ; trước hết phải xét rõ người ấy lúc còn sống, tính họ có bỏn sẻn hay không. Nếu lúc sốn còn, tính họ hay bỏn sẻn, thì khi thấy được bà con đem di-sản mà làm Phật-sự hay bố-thí, tất họ thấy vật dụng của họ bấy giờ thành sở-hữu của kẻ khác, liền sinh lòng giận hờn tiếc nuối. Nhân đó mà khởi lên tà niệm, liền bị nghiệp lực dắt vào ác-đạo. Cho nên Thiện-tri-thức hay là gia-quyến của họ phải khai-thị cho họ những lời như sau đây. “Ngươi tên… Nay ta vì ngươi mà đem di-sản của ngươi làm Phật-sự, hay làm việc phúc đức, làm như thế, tức là đem của cải hữu-lậu làm việc vô-lậu; nhờ ở công đức này, sẽ được siêu sinh Tịnh-độ. Ngươi phải chăm lòng thành kính niệm Phật A-Di-Đà cầu Ngài đến cứu – độ cho. Đối với di-sản cần phải rời bỏ chớ nên bận lòng, phải hoàn toàn không mến tiếc tham đắm đê-tiện mới được. Vì những thế-tài (Tài sản thế-gian) dù có hoàn toàn để lại cho ngươi, ngươi cũng không thể […] được nữa. Như thế đối với ngươi nó đã thành vô dụng rồi vậy”
CÁCH SẮP ĐẶT CÚNG TẾ
Về cách sắp đặt cúng tế, thì rất kỵ việc sát sinh, vì việc sát sinh càng làm liên lụy khổ quả cho người chết. Cho nên thân trung-ấm nếu một phen thấy được việc ấy tức thì bảo thôi ; như ngặt nỗi âm, dương cách trở, nên không thể nào nghe được. Vì thế kẻ sống còn, vẫn trở lại làm sát sinh như thường. Đối với kẻ chết không thể ngăn nỗi sân niệm khởi lên. Đã thế nếu một phen sâu tâm khởi lên, liền phải đọa vào địa-ngục ; cho nên người sắp đặt cùng tế cần phải chú ý. Nếu muốn cúng tế, thì nên dùng đồ chay, hương, hoa, sữa, bánh và đồ trái, chờ dùng những đồ nế-tạp và sát hại sinh vật. Như trong kinh Địa-tạng đã nói : “Làm những việc sát hại, cho đến bái tế quỷ thần ; đã không có một mảy may phúc đức, có thể lợi cho kẻ chết, mà còn kết thêm tội lỗi càng sâu nặng. Dù cho kẻ chết về đời sau của họ, hoặc trong đời này có thể chứng […] hoặc sinh lên Trời ; nhưng khi làm chung bị bà con làm ác-nhân ấy (tức là nhân sát hại) cũng làm cho họ phải liên lụy nhiều bề, chậm sinh về chỗ lành. Huống chi kẻ chết đó khi sống còn chưa từng làm một chút việc lành, chỉ một bề nương theo gốc nghiệp mà tạo tác, lẽ ra phải chịu ác thú, nỡ nào bà con lại gây thêm nghiệp cho họ ? Trong luật Thuận-chánh-lý quyển thứ ba cũng có nói : “Có con quỷ tên là Hy-tư, nó hành-động được tự-do, có thể đi khắp các phương dễ dàng cũng như chim bay giữa trời, qua lại không ngăn ngại. Sở dĩ nó phải đọa làm thân quỷ, duyên cớ có hai :
1.- Là lúc bình sinh của nó, mê say theo lối bàn luận của thế tục, chấp rằng : chết rồi quyết phải thành quỷ. Cho nên luôn luôn mong mỏi sau khi chết rồi, sẽ được con cháu đem đồ ăn đến cúng tế. Vì chấp chặt tà-kiến ấy, và nhờ có căn lành đời trước, nên mới đọa vào loài quỷ này, luôn luôn mong mỏi thờ cúng, bởi thế nên gọi là quỷ Hy-tự.
2.- Là lúc bình sinh hay ưa gần gủi giao thiệp và vì muốn được giàu có, cho nên chỉ biết tích trữ của cải cho mình, ôm lòng bẩn chật, dù cho dư dật cũng không chịu bố-thí. Vì ác nghiệp ấy, nên phải đọa vào loài quỷ này. Luôn luôn vì lòng ưa mến của cải ở đời, cho nên thường hay nương náu chung quanh nhà cửa hoặc những nơi nhơ nhớp. Bởi thế, nếu bà con bạn bè có cúng tế, thì sinh lòng cảm khái và hối hận, sự bẩn chật của mình ngày trước. Do cái niệm lành ấy, nên được cái phúc hưởng thọ cúng tế.
Trong kinh Quán-Đảnh quyền thứ sáu cũng có nói : “Những kẻ trong lúc bình sinh không làm lành, cũng không làm dữ ; thì sau khi chết rồi, không có quả báo gì xuất hiện, cho nên sẽ làm loài quỷ và được tự do. Nhưng loài quỷ này thường hay nương náu nơi mồ mả của mình, hoặc mồ mả của kẻ khác ; dựa theo cái dư khi của cốt tuỷ mà cũng được hưởng thụ. Đến khi xương tuỷ đã mục nát, thì mất chỗ nương tựa tức là tìm đến chỗ nào xương tuỷ chưa mục nát và vô chủ để nương tựa. Trong kinh Chính-pháp-niệm-xứ,[…] thứ 16 cũng nói : “Có một loài quỷ tên là Hy-vọng, vì trong lúc sống còn, hay ưa buôn bán tính toán, chẳng kể gì đến phải chăng ; gạt người lấy của, làm như thế mà tự cho là vừa ý. Còn những việc bố-thí, thành tín, phúc đức, giới cấm v.v… thì không bao giờ nói đến. Luôn luôn ôm lòng bỏn sẻn ganh tị, không ưa gần gủi bạn lành. Cho nên đến khi lâm-chung phải đọa vào làm quỷ này. Loài quỷ này mặt mày đen xém, luôn luôn rơi lụy, tay chân lở loi, tóc tai bù xù, đói khát áp bức; phải chịu bao nỗi đắng cay, kêu gào thảm thiết. Nếu như con cháu có lòng nghĩ đến tiên-linh mà cúng tế, thì quỷ này mới được uống ăn. Ngoài ra không bao giờ được hưởng thọ.
CÁCH VẬN CHƯỞNG ĐỂ GIÚP ĐỠ SIÊU THĂNG
Sau khi hơi thở đã tắt, nhưng thân thể chưa toàn lạnh hẳn, thì cần phải đến gần một bên tai kẻ chết mà kêu gọi ; và chuông, khánh phải đánh luôn luôn chớ cho dừng nghỉ. Nếu như bản thân đã đều lạnh, chỉ có đầu và […] chỉ có thể biết chắc người chết đó được sinh về Tây-phương, không phải ngờ vực, và không nên kêu gọi nữa. Cho nên chỉ vì họ đánh chuông niệm Phật, mãi cho đế khi hơi ấm ở trên trán đã tản hết, đấy là điều cần mà thôi.
(Hơi ấm dồn vào dưới bàn chân, ấy là sa vào địa-ngục. Hơi ấm dồn xuống đầu gối, tức sinh vào súc-sinh ; hơi ấm dồn vào bụng là đọa vào ngạ-quỷ ; hơi ấm dồn vào ngực, là chuyển sinh vào nhân-đạo; hơi ấm dồn lên giữa chân mày là sinh lên cõi Trời ; hơi ấm dồn lên trán là siêu sinh về Cực-Lạc). Xét biết trên đầu và trán lạnh trước, còn ngực, bụng, đầu gối và các chỗ khác hãy còn hơi ấm, thì biết nghiệp thức của kẻ chết còn ở chỗ dương ấm. Khi đó phải tiếng niệm Phật, tiếng chuông cứ luôn luôn không ngớt, và nên mời người dùng phương-pháp vận chưởng (dùng tay mà vần chuyển) để giúp đỡ cho nghiệp-thức của kẻ chết được từ nơi chỗ ấm đó mà đi dần lên đến đỉnh-môn (trán) vì kẻ được sinh về Tây-phương […] nơi đỉnh-món mà ra.
Phương-pháp vận chưởng phải đưa hai tay ngang nhau mà chuyển lần, và phải úp hở trên chỗ ấm, không nên cho động đến thân, phải cách thân độ nửa tấc. Rồi dùng hai bàn tay xây trở lên trán mà vận chuyển, thẳng lên cho đến tráng.
Tinh thần của hai con mắt mình phải chăm chú nơi hai tay và thầm tưởng tượng nghiệp-thức của kẻ chết phải theo tay mình mà trở kên trên trán để đi. Khi dó trong miệng thầm khấn rằng: “Nam-mô đại-từ đại-bi A-Di-Đà Phật, xin ngài đến tiến dẫn cho vong-linh tên… sẽ từ trên đảnh môn mà ra, mà sinh về thế giới Cực-Lạc phương Tây ; quyết định vãng-sinh !” Phải luôn luôn vần chuyển hai tay, và luôn luôn khấn khứa như thế, và niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà và danh hiệu Quán-thế-Âm. Như vậy tinh-thần chăm chú, tay vần, miệng niệm, cả ba nghiệp đều thi hành, nếu mỏi, thì đổi người khác luân phiên tiếp tục. Hoặc nửa ngày hay một ngày, không nên nửa chừng mà thôi nghỉ. Phải là cho đến khi khắp các chỗ trong thân đền lạnh hết, […] một chút hơi ấm trên đỉnh mới thôi. Như thế nghiệp-thức của kẻ chết đã được hiệu Phật và tiếng chuông […] tỉnh không thôi ; lại được kẻ vận chưởng […] -thần chăm chú trợ niệm không nghỉ, thì hoặc chậm hoặc mau, chắc chắn phải xoay trở lên trên đỉnh-môn, mà được thấy Phật A-Di-Đà và vãng sinh về Cực-Lạc vậy. Nhưng người chú nguyện và vận chưởng đó, cần phải mời được những người tu niệm Phật đã lâu, và sẵn lòng từ-bi thì tốt hơn cả.
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công dức này Hồi hướng cho tất cả, Tôi và các chúng-sinh, Đều được thành Phật quả. Dịch xong ngày mồng 10 tháng 11 Kỷ-sửu, P.L.2512
(Nếu không sai, thì có lẽ các bạn đang còn bỡ ngỡ với danh từ Trung-ấm-Thân, mặc dầu với nội dung của cuốn sách này đã cung cấp cho các bạn thấy rõ trạng thái và năng lực của Trung-ấm-Thân. Trong Đạo Phật thường dùng danh từ Trung-ấm-Thân để chỉ cho năng lực động tác của con người – hay một sinh vật cũng thế – trước khi đầu thai và sau khi đã chết (ở giữa thân trước và thân sau, nên gọi là Trung-ấm-Thân) Đấy, chúng ta thấy tương tự như quan-niệm LINH-HỒN của người đời thường hiểu. Bởi thế cho nên dưới đây chúng tôi xin trích đoạn văn nói về “CÁI-HỒN” đăng trong báo VIÊN-ÂM có 4 năm thứ nhất. Mong rằng với đoạn văn ngắn ngủi này, có thể giúp ích nhiều cho các bạn trong khi nghiên cứu đến vấn-đề Trung-ấm-Thân hay là LINH HỒN cũng vậy). Mùa Đông năm Kỷ-Sửu Dịch giả cẩn-chí.
CÁI HỒN
TÍNH CÁCH – Tính cách của cái hồn cũng như tính cách của ngàn muôn pháp (sự hay vật) khác, theo chỗ hiểu mỗi người, ý nghĩa không y nhau ; nên trước khi bàn về cái hồn, cần phải định rõ tính cách của cái hồn, rồi mới có thể bàn được. Định tính cách, chỉ định theo ý-tưởng của đại đa số người mà thôi, xin chớ nhận lầm rằng đó là tính cách nhất định của cái hồn theo lý-nghĩa đạo Phật.
Trong thế-gian, khi chết thì nói hồn ra khỏi xác, khi ngủ thì nói hồn đi chơi, khi dậy thì hồn nhập xác, cho đến khi chiêm-bao có làm việc gì, cũng nghĩ là hồn mình làm, thậm chí có nhà Thôi-miên-thuật, đem riêng một cái hình lờ mờ ra ngoài cho là cái hồn, khi chích kim vào, hồn ấy cũng biết đau nữa. Xét như vậy, thì theo ý-tưởng thông thường, cái hồn cũng đủ mắt, mũi, tay, chân, biết thấy, biết nghe, biết thương, biết ghét như người thường, chỉ khác vì người sống không thể thấy hồn được, hoặc chỉ thấy lờ mờ mà thôi.
DUYÊN CỚ – Mấy lâu nay, vì không định rõ tính cách cái hồn, nên các nhà học Phật đã thường cãi nhau về vấn-đề ấy, cãi nhau mãi là vì mỗi người hiểu mỗi cách. Chúng tôi làm bài này, chẳng phải muốn bênh vị ai, nhưng cốt để cùng tin-đồ Phật-giáo giải quyết vấn-đề trọng yếu kia một cách chánh đáng.
LỜI LUẬN – Như nói rằng, riêng một phần hồn cũng thấy, cũng nghe, thì tôi xin hỏi : Đương khi mình sống, cái thấy, cái nghe của mình là hồn thấy, hồn nghe hay là thân thấy thân nghe ? Nếu như nói thân thấy, thân nghe, thì người chết vẫn có mắt, còn tai, sao lại không thấy không nghe được ? Còn như nói hồn thấy, hồn nghe, thì cái thấy cái nghe kia phải nương theo xác thịt mới có, hay riêng một phần hồn cũng có ? Như nói nương theo xác thịt mới có thì cái hồn ra ngoài xác chắc không còn thấy nghe nữa, sao người đời lại tin rằng […] hồn cũng thấy cũng nghe? Vả chăng nếu hồn cần phải nương theo xác mới thấy mới nghe được thì chỉ nên nói người sống (hồn và xác) thấy, người sống nghe mà thôi, chớ không thể nói riêng phần xác hay là riêng phần hồn cũng thấy cũng nghe được. Còn như nói chỉ một phần hồn cũng thấy cũng nghe, không cần đến xác, thì hồn ấy ra thế nào? Khi mình đứt một cánh tay hồn có đứt cánh tay không? Nếu hồn cũng đứt cánh tay thì hồn với xác là một sao lại chia làm hai ? Nếu hồn như hư-không không thể đứt được, thì làm sao hồn những người mắc bệnh đui không tự thấy đường mà đi, lại phải nhờ người dắt ? Dầu cho rằng hồn chỉ có tính biết, không phải là nghe thấy, không phải là cái cảm-xúc cũng không được ; vì ngoài cảm-xúc và di-ảnh của xác thịt, chúng ta thật không còn cái gì gọi là tính biết nữa.
Đến như chiêm-bao thì không thể nói là hồn hay là xác được ; chiêm-bao do tư-tưởng của mình biến ra mọi sự, tư-tưởng trong sạch thì thấy những điềm lành, tư-tưởng trong sạch thì thấy những điềm lành, tư tưởng độc ác thì thấy những điềm dữ chớ không chi khác. Nếu như nói thân trong chiêm-bao là hồn của mình, thì còn cả cảnh-giới trong chiêm-bao là ai ? Cảnh giới ấy thật có hay không thật có ? Nếu như thật có, thì làm sao những người chung quanh mình lại không thấy ? Nếu như do tư-tưởng mình mà thành ra, thì tất cả cảnh-giới trong chiêm bao đều là mình, riêng chi một cái thân kia đâu, mà lại nhận là hồn là xác.
Xét như vậy thì đủ biết cái hồn biết thấy biết nghe, biết có mình có người, biết thương ghét buồn vui kia, không thật có.
LỜI QUYẾT NGHI
– Không thật có… làm sao nhiều người thấy ma chán-chường, lại có người đánh đồng-thiếp thấy rõ ông bà cha mẹ? Muốn trả lời câu này, tôi xin hỏi thêm một câu nữa, là nhân-vật trong chiêm-bao thật có hay không có ? Chắc ai cũng trả lời rằng không, vì nếu thật có, sao khi tỉnh dậy thì không thấy.
– Nhân vật trong chiêm-bao không thật có, nhưng vì chiêm-bao nên in tuồng là có, cũng như con ma vẫn không thật có, nhưng vì lòng mê-tín và lòng khiếp sợ nên hoá ra có. Đánh đồng-thiếp thấy cái hồn ông bà dưới âm-phủ, nào khác chi những người xem múa rối, mắt phải thôi-miên-thuật, thấy có trâu đi qua ống tre, đó là do tư-tưởng của mình hoá ra, chớ không chi khác.
Có người lại nghi rằng: Không có hồn thì sao ngày nay chúng ta lại sống được. Nghĩ như vậy là chưa hiểu, chớ tôi nói không có hồn là không có cá hồn theo như lối thông thường, nghĩa là cái hồn có mắt, có mũi, có tay, có chân, biết người, biết mình, biết thương, biết ghét kia, chớ không phải tôi nói không có cái gì làm cho chúng ta sống đâu. Cái làm cho chúng ta sống, khi nào cũng vẫn có, sau khi thân chết rồi cũng vẫn có, vì nếu cái ấy không có, thì cái sống cũng không có, làm sao mà sống được ? Nhưng cái ấy, là cái ấy, chớ không phải như cái hồn theo lối thông thường đâu. Trong khi cái ấy làm cái thân chúng ta sống ; thân chúng ta mới theo cảm-giác của loài người mà phân biệt ; Này là thân, này là cảnh, này là mình, này là người ; rồi tưởng-tượng cái ấy có mắt, mũi, tay, chân.
Thật ra thì không phải thế ; cái ấy vẫn làm cho thân sống, vẫn làm cho mắt […] nghe, vẫn làm cho ta có tư-tưởng. Nhưng thật ra cái ấy không riêng một thân nào, không riêng một đời nào cả ? Ví như điện khí vẫn khắp cả vũ-trụ, không nơi nào là không có, mà tuỳ theo chỗ dùng của mình, có luồng điện mạnh, có luồng điện yếu, có đèn sáng, có đèn lu ; cái ấy cũng vậy, cái ấy cùng khắp mọi nơi, mà cũng tuỳ theo chỗ hành động của không khí làm cho thân này, khi làm sống một thân khác, rồi tuỳ theo thân mình mà in […] như có mình, có người, có sống, có chết.
LỜI KẾT LUẬN
– Muốn cho có đèn sáng, cần phải làm ra luồn điện mạnh, làm ra cái đèn tốt, cũng như muốn được thân trong sạch, muốn được cảnh vui vẻ, cần phải hành động một cách chánh đáng, đó là lẽ tất nhiên ; chớ cái làm cho chúng ta sống đây không thể kêu bằng chi được, gượng mà phải gọi là “TÂM” ; một điều chắc-chắn là không phải cái hồn tự một mình biết thương biết thương biết ghét, biết thấy, biết nghe đâu.