Những em bé mới biết đi lạy Phật
Mỗi lần đến nhà tôi chơi, em bé sẽ tự động leo lên tấm thảm thờ và lạy. Khi thấy tượng Phật ở đâu bé sẽ tự động đi đến để cúi lạy. Thật khó mà để giải thích rằng đây không phải là do nhân duyên và trí tuệ trước đó.
Trong hai năm gần đây, gia đình N đã trở thành bạn thân của tôi. Kể từ khi cô con dâu lớn của họ đến Phật đường của chúng tôi để cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát ban cho họ những đứa cháu, và sau đó họ và cô con dâu thứ sáu đã đến lễ Quán Thế Âm Bồ Tát đều đặn.
Năm ngoái, tôi từng dự đoán rằng gia đình họ sẽ có thêm ba đứa cháu nữa. Dự đoán của tôi là con dâu lớn của họ sẽ mang thai lần nữa vào mùa xuân này và trở lại Canada để sinh con. Cô con dâu thứ năm và nàng dâu thứ sáu của gia đình cũng sẽ mang thai và làm mẹ trong năm nay. Tất cả những dự đoán này đã được xác nhận và cả gia đình đều rất vui mừng. Tôi trở thành chuyên gia tư vấn cho các gia đình N và họ thường gọi điện cho tôi để hỏi tôi điều này điều kia, bao gồm việc ăn gì, không nên ăn gì cho con dâu thứ năm, con dâu thứ sáu cần chú ý những gì, làm sao để trị cơn cảm lạnh của cậu bé Tommy, và tôi đều vui vẻ trả lời. Một người đàn ông chưa từng kết hôn đột nhiên trở thành bác sĩ tư vấn sản phụ khoa và nhi khoa, đó là một chuyện tuyệt vời.
Sau đó, chị Năm bắt đầu tin rằng tôi có thể chẩn đoán từ xa khi vắng mặt. Cô ấy cũng đã khỏi bệnh dị ứng da nhờ theo chế độ ăn chay của tôi. Từ đó chị Năm cũng tin tôi, tin Phật và cùng gia đình đến lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi thường nói với gia đình rằng bác sĩ dù giỏi đến đâu cũng có lúc mắc sai lầm. Quý vịnên gặp nhiều bác sĩ để lắng nghe thêm ý kiến từ các bác sĩ khác nhau. Như lần này thật là nguy hiểm. Trường hợp mà cô ấy phá thai bừa bãi thì có đáng không? Nếu cô ấy tạo nghiệp sát sanh, cô ấy có lẽ không thể mang thai lần nữa trong tương lai. Gia đình cuối cùng đã rất tin tưởng vào tôi. Ông N lớn tuổi bị đau bụng mấy chục năm đến nhờ tôi chẩn bệnh. Tôi thấy bụng của ông bị xuất huyết nội. Sau đó, bác sĩ xác nhận rằng ông ta cần phải được phẫu thuật. Tôi khuyên ông ta nên ăn chay thì hơn. Cuối cùng ông ấy đã khỏi bệnh nhờ áp dụng phương pháp ăn chay của tôi. Gia đình cuối cùng đã chữa lành nhiều bệnh lặt vặt qua chế độ ăn chay của tôi . Do đó, họ sùng kính Phật giáo, đã cải đạo và dốc lòng làm nhiều việc thiện. Đây là điều mà tôi thấy vui.
Tôi rất quý cháu trai của gia đình N, bé Tommy, con của cô dâu thứ sáu. Năm kia không có con dâu nào của họ mang thai. Bà N đang nóng lòng muốn có cháu đã đến nhà tôi. Tôi khuyên bà ấy nên lễ bái và cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát, điều mà bà ta đã làm. Rồi đến năm ngoái 1986, cô dâu thứ sáu đã sinh ra đứa bé mũm mĩm này. Chẳng mấy chốc sau đó ,cô con dâu đầu lòng cũng đã hạ sinh một bé gái bụ bẫm. Cả hai con búp bê này đều rất dễ thương. Tôi thích chúng lắm. Tuy nhiên, tôi không giỏi bế em bé. Con búp bê con gái thì không dám bế, chỉ dám bế búp bê con trai bự hơn. Mỗi khi cậu bé mũm mĩm vừa nhìn thấy tôi, bé luôn tự động dang tay ra ôm tôi khi tôi ôm bé. Khi ôm cậu bé tôi thấy rất hạnh phúc và cậu bé cũng thích tôi. Bé sẽ áp trán lên trán tôi và nhìn chằm chằm vào tôi. Mỗi khi họ đến. Tôi yêu cầu họ đưa Tommy đến chơi với tôi.
Khi tôi đang thuyết giảng, cậu bé nhảy tưng tưng trong vòng tay của bà, vẫy đôi bàn tay nhỏ bé của nó và nhìn tôi và giúp tôi giảng bài. Khi tôi đặt em dưới bàn thờ, cậu ta sẽ bò trên mặt đất và cầu nguyện bằng hai bàn tay nhỏ xíu của mình, đó là một điều rất kỳ lạ. Ngoài ra, một bé gái khác là cháu của bà R cũng được ban cho nhờ cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát.
Mỗi lần đến nhà tôi chơi, bé này sẽ tự động leo lên tấm thảm thờ và lạy. Khi thấy tượng Phật ở đâu bé sẽ tự động đi đến để cúi lạy. Thật khó mà để giải thích rằng đây không phải là do nhân duyên và trí tuệ trước đó.
Tình huống này cũng giống như thời thơ ấu của tôi. Tôi nhớ khi tôi còn là một đứa trẻ mới biết đi, tôi sẽ tự động cúi đầu và lạy tôn tượng Quán Thế Âm Bồ Tát mỗi khi nhìn thấy và đã không ai dạy tôi cả. Mẹ tôi không thể sinh con vào thời điểm đó và cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát ban cho một đứa con mà bà chưa hề nói với tôi về điều đó. Nhưng từ khi sinh ra tôi đã biết rằng tôi được sinh ra là nhờ những lời cầu nguyện của mẹ tôi. Tôi đã trải qua một ca sinh nở khó khăn sau khi họ mổ bụng của mẹ tôi để đem tôi ra. Tôi đã bị ngạt thở trong hơn một giờ. Tôi thấy các bác sĩ làm việc trên cơ thể tôi trong một thời gian dài. Và sau đó tôi nhận ra rằng tôi phải nhập vào cơ thể này nên tôi đã sống lại.
Tôi không thèm ăn thịt và đã ăn chay từ khi mới lọt lòng. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến hôn nhân và tôi không thích cuộc sống gia đình. Tôi thường trở về chùa thiền trong những giấc mơ hay dưới chân Quán Thế Âm Bồ Tát. Tôi vẫn thường nghe tiếng chuông chùa xa xa và tiếng thiền ca không biết từ đâu đến như hiện ra hoặc biến mất. Thông thường khi chuông và trống vang lên, tôi đã rơi nước mắt. Tôi không biết liệu những đứa trẻ khác được sanh ra đời nhờ cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát có ở trong hoàn cảnh giống như tôi hay không.
Tuy nhiên, điều kỳ lạ là những đứa trẻ này và tôi đặc biệt thân thiết. Như bé Tommy và bé gái của R, chúng muốn tôi ôm chúng ngay khi nhìn thấy tôi và không chịu buông tay. Cậu bé Tommy thậm chí còn không chịu cha mẹ bế ra khỏi cửa trở về nhà. Mối liên hệ nhân quả này thực sự rất khó giải thích. Cậu bé chỉ thích tôi ôm bé quỳ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát. Bé gái của R cũng làm tương tự và bé tự bò lên thảmcúng một mình, chắp tay, cúi đầu và nói với cái miệng nhỏ xíu, “lạy, lạy.”
Con dâu của N cầu nguyện Quán Thế Âm Bồ Tát cho bé gái Chichy, chưa đầy một tuổi và chỉ mới biết nói vài từ. Trước sự ngạc nhiên của tôi, những chữ đầu tiên bé nói không gì khác chính là bài chú sáu chữ của Quán Thế Âm Bồ Tát. Mỗi ngày, bé ấy cũng tự mình đọc sáu từ này. Tình huống này cũng tương tự như thời thơ ấu của tôi. Khi tôi còn là một đứa trẻ, tôi thường dùng những chiếc khăn trải giường màu trắng và ngồi ở giữa giường chắp tay thiền định và tụng chú. Thật ra, mẹ tôi không tụng kinh hay trì chú và cũng không hề có nhà sư nào đến nhà chúng tôi. Khi cha tôi nhìn thấy tôi, ông cười và mắng tôi, “Đừng có giả vờ là một nhà sư. Nếu con còn làm điều đó một lần nữa, ba sẽ đánh đòn”. Khi tôi còn bé, giả làm nhà sư và ăn chay là vi phạm luật gia đình, nên tôi luôn phải rất thận trọng và thực hiện điều đó một cách bí mật. Khi cha tôi không có ở nhà và mẹ tôi không để ý đến, tôi sẽ chắp tay ngồi thiền trên giường và niệm chú, một điều mà cha tôi gọi là vô nghĩa. Khi tôi khoảng ba tuổi. Tôi nói chuyện hàng ngày với một cô bé hàng xóm cùng tuổi bằng những lời mà người lớn không thể hiểu được. Cả hai chúng tôi hiểu nhau và chúng tôi đã trò chuyện rất nhiều. Tôi nhớ là chúng tôi đã nói về Quán Thế Âm Bồ Tát, chư vị Bồ Tát khác, và chúng tôi đã nói về những đóa hoa sen khổng lồ, về đại hải và về kim quang.
Rốt cuộc đó là một bí ẩn, và bây giờ tôi không nói cái ngôn ngữ kỳ lạ đó nữa, nhưng tôi nhớ rất rõ những câu chuyện thời thơ ấu của mình. Tôi cũng nhớ những mảnh vụn của kiếp trước, nhưng tôi không thể tiết lộ chúng vì chúng tôi không được phép đề cập đến chúng.
Đã gieo trồng thiện căn dẫu chết cũng không sợ
Việt dịch: T Chan Ngo