Nhập thất: An trú và nhất tâm (11)

Sự kiểm chứng, xem xét sơ thiền là không bệnh, không bệnh tức đã an trú sơ thiền, vì an trú sơ thiền là đã “.. vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” đã nhập lưu (tu đà hoàn).

 

Trong Kinh Bát Thành – Trưởng lão phân tích tỉ mỉ cả 8 pháp “Sơ thiền…này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt. Vị ấy vững trú ở đây đoạn trừ được các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này, vị ấy đoạn trừ được năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh, nhập Niết bàn tại cảnh giới ấy, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia chủ như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc trí giả, kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác tuyên bố…”.

Toàn bộ tám pháp được lặp lại theo kinh văn mà Trưởng lão đã chứng minh là đầy những pha trộn, chêm chẽ “…Nhưng kinh Bát Thành này đã bị người sau thêm vào Bốn định vô sắc. Bốn định vô sắc là bốn loại định tưởng. Bốn loại định tưởng thì không thể nào tu tập đi đến rốt ráo được, vì chính Đức Phật đã nhập các loại định tưởng này còn phải bỏ mà trở về tu tập bốn định hữu sắc mới thấy được sự giải thoát làm chủ sanh, tử chấm dứt luân hồi. Bốn loại định vô sắc này được cộng chung lại với tám pháp đầu tiên là 12 pháp, như vậy bài kinh này đúng ra phải có tên là “Thập Nhị Thành” chứ đâu gọi là “Bát Thành” được. Đó là cái sai thứ nhất trong bài kinh này, do các vị Tổ Sư kết tập kinh…”

Và chính Trưởng lão trong lúc miệt mài soạn thảo cũng không tránh khỏi bẫy rập: Bốn pháp tứ vô lượng tâm đó là các pháp có giá trị ngang nhau như 4 ngõ vào đạo (Từ,Bi, Hỷ Xả ) nhưng Tứ thánh định lại là 4 bậc từ thấp đên cao, không ai có thể nhập vào định thứ tư khi chưa có căn bản, chưa từng biết đến sơ thiền. Đó là điều phi lý kế tiếp của kinh bát thành. Bên cạnh hàng loạt cái phi lý đã làm mất hiệu dụng rõ rệt khi triển khai y chỉ kinh văn.

404373447_7400382699986368_3432062346806521500_n

Cùng với “Kinh Bát Thành”, “Xác định các pháp tu tập”. Tạo thành hai bộ pháp bảo quí giá hơn vàng ròng:

1. Kinh Bát Thành

2. Xác định các pháp tu tập ( trong Tăng Nhất A Hàm tập 3: 1. Nhất tâm là định. 2. Bốn (Tứ) niệm xứ là định tưởng. 3. Bốn (tứ) tinh cần là định tư cụ. 4. Sự luyện tập, sự tu tập, tái tu tập những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy. 5. Thở vô và thở ra là thân hành. 6. Tầm tứ là khẩu hành. 7.  Tưởng thọ là tâm hành.)

Đây là hai pháp bảo thực sự để chọn lựa. Một là đường lối, là định hướng, là con đường vào đạo và hai là phương pháp hành trì trên đường học Phật ngay từ sơ cơ, ngay từ ban đầu để:

1. Bạn có thể đi suốt con đường cho đến chứng đắc A-la-hán (tứ thánh định)

2. Bạn vượt thoát khỏi con đường đầy hiểm nạn, bệnh tật, phiền não, vươt thoát khỏi đời sống tầm thường, chỉ cần an trú ở giới (một đời sống ly dục khác hẳn đời sống thiểu dục của những người còn nhầm lẫn về con đường, về khái niệm giác ngộ, tầng lớp thuộc hướng lưu hay dự lưu chứ chưa nhập vào sơ thiền – nhập lưu) bước đầu tiên trên lộ trình Giới-Định-Tuệ. Đây chính là bậc chứng đắc của 320 Tỳ kheo trong Tăng đoàn Đức Phật. Giác ngộ cũng có nghĩa là sơ thiền, có nghĩa là chứng đạt giới trên lộ trình Giới-Định-Tuệ. Do sự “hâm hở” thái quá trong bố thí Pháp mà người ta không còn phân biệt có sự sai khác giữa thiểu dục tri túc với ly dục. Giống như hai từ giác ngộ cũng vậy. Giác ngộ nó không chỉ là sự hiểu, sự biết mà là một quả vị trong hành trì (nhập lưu), là cả một kỳ công hợp nhất thân với tâm mà cũng chính là chữa bệnh với giác ngộ.

Giác ngộ (Giới) Hộ trì (Định) Chứng đạt (Tuệ).

Ba bậc trong tu tập mà không ít người nhầm lẫn. Nhắc lại một là định hướng tám pháp, hai là phương pháp hành trì gồm 7 yếu chỉ đã nêu. Ở đây lưu ý 4 yếu chỉ đầu tiên:

1. Nhất tâm là định.

2. Bốn (Tứ) niệm xứ là định tưởng.

3. Bốn (tứ) tinh cần là định tư cụ.

4. Sự luyện tập, sự tu tập, tái tu tập những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy.

Nhất tâm là định: Do chưa được phân tích chuẩn xác, Tăng Ni, Phật tử chưa chuẩn bị tốt hành trang vào đạo. Khi chưa hiểu đúng, khi thiếu sự liên hệ, câu hữu tứ đại với nhất tâm (hợp nhất) bốn niệm xứ (2), bốn tinh cần (3). Diễn giải “nhất tâm” là “chẳng niệm thiện niệm ác bản lai diện mục hiện tiền hay tâm ly dục, ly ác pháp cũng đều chưa chuẩn xác. Bởi lẽ ly dục ly ác pháp là pháp thứ (3). Trong khi (1) Nhất tâm – Định (hợp nhất) cùng với (2) và (3) tức là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn, Định là nhất tâm Nhất tâm là định.

Nhắc lại: 4. Sự luyện tập, sự tu tập, tái tu tập những pháp ấy là tu tập định ở đây vậy. Dù bạn chọn định Tứ thánh hay Tứ vô lượng tâm đều đòi hỏi sự tinh tấn, kiên trì 3 pháp:

1. Nhất tâm,

2. Bốn niệm xứ,

3. Bốn tinh cần

Cả 3 hợp lại để thanh tịnh thân, thanh tịnh tâm, để ly dục, ly ác pháp mà nhắc lại, khẳng định lạị ở (4) trở thành một bộ bí kíp để nâng niu, để tu tập, tái tu tập mà vào sơ thiền. Đó là con đường hợp nhất thân tâm. Khi thân tâm hợp nhất, thanh tịnh do Tứ niệm xứ và Tứ chánh cần tạo nên.

Đức Phật thuyết như sau: “…Này các Tỷ-kheo, đây là con đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ…”, “… Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về các vị trí các giới và sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại”. Này các Tỷ-kheo, như một người đồ tể thiện xảo, hay đệ tử của một người đổ tể giết một con bò, ngồi cắt chia từng thân phần tại ngã tư đường. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo quán sát thân này về vị trí các giới và về sự sắp đặt các giới: “Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại…”. Hợp nhất thanh tịnh an trú ở sơ thiền là đã “..vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…”.

Thực hành Bốn niệm xứ và Bốn tinh cần không chỉ là lời thuyết giáo mà đã được xác chứng bằng 320 Tỳ kheo (trong số 500). Lấy ma vương làm đạo bạn…Nghĩ đến thân đừng cầu không bệnh tật vì không bệnh tật thì dục vọng dễ sanh. Chính bệnh tật sinh ra từ dục vọng hay ngược lại, chiêu cảm, tương tác tương ưng vì nhân, vì duyên…tham ái mà sinh ra bệnh tật.

Sự kiểm chứng, xem xét sơ thiền là không bệnh, không bệnh tức đã an trú sơ thiền, vì an trú sơ thiền là đã “.. vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn…” đã nhập lưu (tu đà hoàn).

Riêng các Phật tử, tu sĩ khi vẫn còn trái gió trở trời đến hiệu thuốc mua vài liều để uống vào thì cũng chỉ là những người hướng lưu, dự lưu. Sự đánh tráo định vô sắc (tà thiền) nằm chung trong “Bát thành” chính là tư tưởng của Luận BVTM. Chính Trưởng lão đã từng nặng lời với những tu sinh còn sợ hãi, khiếp đãm, lo lắng chạy bác sĩ, chạy bệnh viện…đơn giản những người chưa đủ lòng tin chánh pháp thì cứ để họ bám víu vào ác pháp, lấy ma vương,…

Đã có lúc tôi tự nghĩ sao không ai, tổ chức nào làm động thái sát hạch, ấn chứng để người nhập sơ thiền an tâm với quả vị đạt được. Chỉ thoáng nghĩ vậy thôi nhưng nghiệm lại sự ấn chứng lại cũng kích hoạt cái danh, cái lợi, cái ngã cái mà trong thời mạt pháp đã len vào khí thở, len vào thực phẩm của loài động vật hai chân, cái mà thời Đức Phật, cách đây hơn 2600 năm đã không làm. Vấn đề là biết rõ để tự kiểm chứng, tự sửa mình để biết mình đã đi đến đâu để củng cố lòng tin. Điều có thể khẳng định đã an trú ở giới thì chẳng nói chuyện bệnh tật, vì đã dứt được phiền não, diệt trừ được khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết bàn. Mà đã có phương pháp, có lộ trình, chỉ rõ từng bước kiểm chứng thì đâu cần phải mắng, phải nặng lời nữa. Đủ duyên thì tinh tấn hành trì, thối chuyển thì chịu chứ có mắng nhiếc chỉ tạo nghiệp cho bậc đạo sư mà thôi.

Đức Phật sau khi từ bỏ pháp của các bậc đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputa là lúc nhận ra đó là pháp thoát ly thân với tâm để rồi tìm ra con đường hợp nhất thân tâm. Phương pháp hành trì đã chỉ cụ thể cho người chọn con đường đi  đến chứng đắc A-la-hán. Ngay cả những người chọn con đường lìa xa tham ái, dục lạc cũng phải đi qua đây để nhập lưu, để hoàn thành giai đoạn giới, an trú ở bậc giác ngộ.

Khi chưa tìm được trạng thái nhất tâm thì mọi nổ lực của bạn cũng chỉ là sự ức chế, ám thị đầy chướng ngại pháp. Hãy đọc kỹ  “…thế nào là thân tu tập và tâm tu tập? Ở đây, này Aggivessana, lạc thọ khởi lên cho vị Thánh đệ tử nghe nhiều. Vị này được cảm giác lạc thọ, nhưng không tham đắm lạc thọ, không rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ, vị ấy cảm giác khổ thọ nhưng không sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh…” và đây nữa “…Này Aggivessana, không luận người nào mà cả hai phương tiện đều có lạc thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập, như vậy này Aggivessana, người ấy là người có thân tu tập, có tâm tu tập… (1) ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống và đặt trong nước… (2) ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước… (3) ví như có một khúc cây khô, không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô…” Đó là “đặc tướng” là sự dị biệt thực tế mà mỗi người đến với Phật không ai giống ai. Cho nên phải hiểu, phải tự thắp đuốc lên mà đi, phải tự mình làm ngọn đèn cho chính mình…

Bài học vô giá mà Đức Phật đã mô tả lại trạng thái tu thiền nín thở kiểu ức chế tâm, đến mức mà các vị chư thiên thốt lên “Sa môn Gotama chết rồi”

Hãy đọc một đoạn trong thân hành niệm mà Trưởng lão chú giải “…khi bạn tu tập pháp Thân Hành Niệm, lúc bấy giờ pháp ấy đã biến thân tâm của bạn là một căn cứ địa thì không bao giờ có giặc loạn tưởng, giặc hôn trầm thùy miên giặc vô ký, trạo cử, giặc cảm thọ trong khi bạn ôm pháp tu tập thì nó không bao giờ đánh vào được, đó là bạn đã biến pháp môn Thân Hành Niệm thành căn cứ địa nơi thân tâm bạn, còn ngược lại bạn còn bị những chướng ngại kể trên tác động vào thân tâm được thì pháp môn ấy chưa trở thành căn cứ địa. Chưa trở thành căn cứ địa thì bạn hãy tập luyện nhiều hơn nhưng cũng tuỳ ở giới luật của bạn có nghiêm chỉnh hay không…”.

Cái thân mới chính là khúc cây đầy nhựa sống, đặt trong nước, như ví dụ trong Đại Kinh Sáccaca. Khi tìm được bảo bối Trung bộ kinh và các tập kinh do Hoà thượng Thích Minh Châu dịch để xoay chuyển hướng tu tập, Trưởng lão là một Hoà thượng với sự thanh tịnh thân, tu tập từ lúc 8 tuổi, và những năm tháng độc cư, kham nhẫn khốn khó ở Hòn Sơn – Kiên Giang đã đủ biến Ngài thành “một khúc cây khô, vớt ra khỏi nước” chờ đặt dụng cụ “đánh lửa” lên mà kiên trì, tinh tấn, khác hoàn toàn Đức Phật lúc từ giả các vị đạo sĩ từng là thầy mình vẫn còn là một thái tử với thân đắm nhiễm dục lạc, tham ái, kẻ hầu người hạ, cung phi mỹ nữ cao lương mỹ vị ngập tràn. Một thân cây (1) …đẫm ướt, đầy nhựa sống và đặt trong nước khác với (3) khúc cây khô vớt khỏi nước. Đem kinh nghiệm của đoạn cây khô áp vào thế tục mà con người đầy dục lạc đắm nhiễm đó là sai lầm của Bậc A-la-hán …

Cứ lắng nghe những bức tâm thư của Trưởng Lão mới thấy hết những day dứt, trăn trở với con đường đạo đã qui tụ hàng trăm tăng sinh, các bậc tôn túc cùng với biết bao nổ lực của Ngài mà nguyện ước cũng chỉ gióng lên hồi chuông về sự sai khác quá nhiều trong giáo thuyết. Nhưng rất may, Trưởng lão còn để lại cả thư viện cho lớp người sau lần mò tìm đến mà tôi là một trong số ấy. Con đường hợp nhất thân với tâm cũng là con đường hợp nhất chữa bệnh và giác ngộ. 

Kỳ Nam