Một người bình thường làm cách nào để ngộ được lý vô ngã ?
Chỉ có đạt tới cảnh giới vô ngã thì mới thể sống một cuộc đời có ý nghĩa, có giá trị nhất, thể nghiệm hạnh phúc viên mãn nhất.
Con người chúng ta, ai thấu rõ và sống với tuệ giác vô ngã sẽ được an yên phúc lạc. Ai sống, suy nghĩ kiểu Chấp ngã thì sẽ tự gây đau khổ lo sầu cho bản thân và những người xung quanh.
Ai nhìn sâu, thấu rõ như thật về chân lý vô ngã thì có thể giải quyết được tận gốc rễ tất cả mọi sầu bi khổ ưu não của thế gian, đạt được an vui, hạnh phúc, giải thoát viên mãn.
Ai đang lâm vào cảnh khốn cùng tuyệt vọng, chỉ cần thấu rõ chân lý vô ngã, sẽ không còn tuyệt vọng nữa
Ai đang chán nản buông xuôi, chỉ cần thấu rõ lý vô ngã sẽ không còn chán chường nữa
Ai đang tự ti mặc cảm vì nghèo hèn xấu xí, chỉ cần nghe được chân lý vô ngã, họ sẽ tự tin vươn lên trong cuộc sống.
Chẳng lẽ bất cứ người nào có thể thấu triệt lý vô ngã cũng đạt được hạnh phúc viên mãn. Vậy một người bình thường làm cách nào để ngộ được lý vô ngã ?
Vô ngã là một chân lý, một đạo lý cao siêu, tế nhị mà đức Phật Thích Ca đã đích thân chứng ngộ và truyền dạy trong kinh Vô ngã tướng.
Xét ở góc độ triết học, thì học thuyết vô ngã là một trong những đặc chất của Phật giáo, nhằm khu biệt rõ nhất so với các học thuyết tư tưởng khác.
Có thể khẳng định rằng cho đến khi đức Phật ra đời và giác ngộ, thì nhân loại mới biết đến lý vô ngã.
Ai thấy rõ lý vô ngã, người ấy đã thấy Phật, người ấy đã đạt được giải thoát Niết Bàn. Hòa thượng Thiện Siêu khẳng định: Vô ngã là Niết Bàn.
Vì sao ai thấu rõ lý vô ngã thì đạt được giải thoát Niết Bàn. Nói theo ngôn ngữ đời thường là ai hiểu như thật về chân lý vô ngã, người ấy đạt được hạnh phúc viên mãn.
Thật ra, vô ngã là gì?
Vô là không, ngã là ta, là cái ta, cái tôi, cái bản ngã.
Vô ngã là không thực có cái ta, cái tôi, cái bản ngã.
Vô ngã còn có thể nói cách khác là “phi ngã”
Cụ thể hơn, cũng là điều đức Phật muốn nói rõ nhất về bản chất thật của con người là vô ngã.
Nói bản chất thật của con người là vô ngã sẽ làm cho không ít người giật mình, lo ngại, phản đối hoặc sợ hãi mơ hồ, không biết bám víu vào đâu, bởi họ quen bám víu vào cái ngã.
Vì sao ? Bởi vì từ trước đến nay dù là có ý thức hoặc không ý thức, đa phần con người chúng ta sống, suy nghĩ, hành động làm việc, nói năng trong “ý thức hữu ngã”, “ý thức chấp ngã”.
Nói dễ hiểu là, chúng ta sống với quan niệm “có cái ngã”, ” có cái ta”, ” có cái tôi”. Sống bám chặt vào cái ta. Cuộc sống của chúng ta là một sự hiện thức hóa của cái ” tôi”, “cái ta”. Mọi sinh hoạt của chúng ta bị bao phủ bởi cái bóng mờ của “cái ta”. Chính vì vậy, muôn vàn sầu bi khổ não buồn phiền chán nản tuyệt vọng phát sinh từ quan niệm “chấp ngã”. Tức là sầu bi khổ não phát sinh khi chúng ta không đáp ứng, không thỏa mãn những tham cầu của “cái ta”
Vì sao quan niệm “chấp ngã”, chấp “cái ta” và chấp “cái của ta” lại là nguồn gốc phát sinh mọi khổ đau tuyệt vọng và tội lỗi ?
Người chấp “cái ta” và “cái của ta” thì họ xem nó là quý nhất, nó là hy vọng, nó là niềm tin, nó là mục đích, nó là tất cả. Ai đụng chạm vào “cái ta” và “cái của ta” là không xong, sẽ liều mạng ăn thua đủ.
Ích kỷ, ganh ghét, tham lam, cố chấp, bỏn sẻn, đố kị, sân hận, hơn thua, so sánh, háo danh, sĩ diện hão là những biểu hiện thành tính của những người chấp ngã sâu đậm.
Nhưng hỡi ôi ! Họ đã lầm lớn.
Họ đã sống mong ước, kỳ vọng,vào một thứ hư ảo không thật thì làm sao họ không làm cho họ khổ não triền miên…
Vì chấp ngã, nên ta mới luôn buồn phiền khổ não với các tính ích kỷ, cố chấp, đố kỵ, tham lam.
Thấu rõ như thật về lý vô ngã, ta trút bỏ mọi gánh nặng ưu phiền, thành kiến cố chấp, tâm ta sẽ nhẹ nhàng, vui vẻ, an ổn, thanh tịnh hướng tới giải thoát.
Làm thế nào để quán xét như thật về lý vô ngã.
Không phải chỉ do đức Phật nói vô ngã thì ta nhắm mắt tin ngay lý vô ngã.
Mà nếu ta có tin lời Phật dạy, tin lý vô ngã, mà không đích thân dùng trí tuệ trải nghiệm quán xét như thật thì ta cũng chưa nếm trải được vị an lạc, hạnh phúc, giải thoát.
– Ta hay lầm tưởng ta có nhiều quyền quyết định về thân thể của ta. Quan sát thấy rõ thân thể hình hài của ta, do các nhân tố đất (da, thịt) nước (máu) gió (hơi thở, khí) lửa (hơi ấm) hợp lại mà thành. Ta gần như không có thẩm quyền gì nhiều về hình hài vóc dáng của ta. Như ta muốn thân thể ta trẻ đẹp, khỏe, trắng, gọn…mà đâu có được; muốn khỏe thì nó cứ bịnh, cứ già rồi sẽ chết. Ngay cả hơi thở ra vào, ta cũng phải vay mượn không khí từ bên ngoài. Thở ra không hít vào là xong xuôi một đời rồi. Thân thể ta do nhiều duyên hợp lại, bị quy luật vô thường chi phối, không có bền lâu, không có tự ngã, không có chủ tể, không có tự ngã nên nói nó vô ngã.
– Ta quan sát rõ, các cảm thọ, cảm xúc như buồn vui thương ghét giận hờn cứ đến rồi đi trong ta, mà hầu như ta không có thẩm quyền gì với chúng. Ta muốn giữ lại niềm vui sướng cho thật lâu hay xua tan nỗi ưu buồn cho qua nhanh cũng không được. Đời người là chuỗi dài các cảm thọ, cảm xúc nối nhau liên tục không ngớt. Chúng ta nô lệ, lệ thuộc vào cảm thọ, cảm xúc vì ta không biết như thật về nó.
Ai cũng muốn sống vui nhiều buồn ít nhưng đa phần lại sống buồn nhiều vui it.
Các cảm xúc vui buồn của ta thường do các nhân duyên tạo ra, như ta được khen thưởng ta vui, bị chê trách ta buồn; thắng tiền ta vui thua tiền ta buồn. Bản chất của các cảm xúc là duyên hợp, mơ hồ, dễ tan mất, nhất là nó không thực có, không bền vững, không có tự ngã, không có chủ tể nên cảm thọ là vô ngã.
– Ta thường tưởng tượng ra rất nhiều thứ trong đời. Ta hay có những mơ tưởng hão huyền trong tương lai, lầm tưởng về ý nghĩa cuộc sống. Tiếng việt ta nói tưởng tượng tức là không thật có, không có tự ngã nên tưởng là vô ngã.
– Nếu ta chú tâm tỉnh giác ta sẽ nhìn rõ sự vận hành liên tục, sự biến chuyển cực kì nhanh chóng và tế nhị của các trạng thái tâm tư của ta.
Cuộc đời của ta là sự nối tiếp liên miên bất tận các ý nghĩ, các tâm tư, các suy nghĩ. Những thứ này như có như không, khó nắm bắt, khó điều khiển, đến đi nhanh chóng và liên tục. Sự vận hành của dòng tâm tư này càng nhanh, càng lộn xộn, càng lung tung thì ta càng mệt mỏi khổ não. Vì nó chuyển biến liên tục thay đổi nhanh chóng và không có chủ tể, không có tự ngã nên hành là vô ngã.
– Thức (nhận thức) là yếu tố rất quan trọng trong đời sống con người, khó thấu rõ, nhận thức là vô ngã nhất. Bình thường, nhận thức của chúng ta do huân tập học hành, do 6 căn mắt tai mũi lưỡi thân ý tiếp xúc với 6 trần sắc thanh hương vị xúc pháp phát sinh 6 thức. Chúng ta quan sát, cái gì do duyên hợp mới thành thì sẽ không tồn tại khi duyên tan. Nhận thức cũng vậy, nó không có tự thể, luôn biến đổi, không có tự ngã nên thức là vô ngã
Ta đã thấy rõ năm yếu tố hợp thành con người là vô ngã đương nhiên có thể xác định con người là vô ngã.
Chỉ có đạt tới cảnh giới vô ngã thì mới thể sống một cuộc đời có ý nghĩa, có giá trị nhất, thể nghiệm hạnh phúc viên mãn nhất.
Cho nên, ta có khái niệm mới về hạnh phúc: Vô ngã chính là hạnh phúc đích thực.
Thật là:
Thấu rõ lý Vô ngã
Khổ não bám vào đâu
Băng “ngã chấp” tan dần
Ưu phiền theo gió bay.
TS.Thích Hạnh Tuệ