Hiểu về tâm hỷ
Tâm hỷ (Mudita)
Cho nên dù xuất gia hay tại gia cũng cần hiểu và tu tập tâm hỷ
Hỷ là đức hạnh cao thượng thứ ba trong bốn tâm rộng lớn
Hỷ, vui (Mudita).
Về định nghĩa hỷ là trạng thái phần vui mừng, hớn hở, hài lòng, hân hoan, phấn khởi, thích thú, hoan hỷ, vui vẻ của tâm.
Hỷ, không phải chỉ là trạng thái thỏa thích suông, cũng không phải cảm tình riêng đối với người nào. Hỷ là tâm vui thích trước hạnh phúc của người khác, trước sự thành công của các chúng sanh khác.
Ngược lại với tâm hỷ là tâm ganh tỵ. Hỷ là niềm vui làm tiêu tan lòng ganh tỵ.
Lòng ganh tỵ có sức phá hoại vô cùng nguy hiểm, gây khổ đau cho bản thân và người khác. Có nhiều người lấy làm khó chịu bực tức khi thấy hoặc nghe nói người khác có thành tích thành công được khen tặng….
Thấy người khác bị thất bại thì vui mừng, hớn hở mà không thể chịu đựng sự thành công của kẻ khác, thậm chí cố gắng phá hoại hoặc bóp méo sự thật để chê bai, thay vì vui lên để tán dương thắng lợi của người.
Người có tâm Hỷ trực tiếp hưởng nhiều lợi ích do tâm ấy đem lại, hơn là người khác, vì tâm Hỷ không chấp chứa lòng ganh tỵ. Về một phương diện khác, người có tâm Hỷ không bao giờ làm trở ngại tiến bộ và phá hoại thanh danh của người khác.
Con người bình thường không bao giờ có thể biểu lộ sự hoan hỷ vui mừng trước cái vui của người kẻ thù người ghét.
Lòng ganh tỵ lại còn thúc đẩy con người làm những điều trái lương tâm thậm chí ác độc.
Có rất nhiều cấp độ hỷ, tạm có thể phân các loại hỷ như sau:
Tiểu hỷ: niềm vui nho nhỏ
Sát na hỷ (cái vui chớp nhoáng) như tia chớp lóe lên rồi mất.
Hải triều hỷ: như mưa rào, như cơn sóng lượn tuôn vào bờ, cũng mạnh nhưng không lâu
Khinh hỷ: niềm vui thư thái nhẹ nhàng lâng lâng bay bổng
Biến mãn hỷ: Niềm vui thấm nhuần toàn thân, có tính ổn định và lâu.
Trong sơ thiền và nhị thiền, hành giả có tâm hỷ nhưng đến tam thiền thì không còn hỷ mà chỉ có lạc.
Tứ vô lượng
Tu tâm hỷ
Niềm vui không chấp
Diệt trừ ganh tị
Cần lắm thay