Công đức tu Bát quan trai giới
A. Thuyết minh ý nghĩa và mục thứ khuyến trì Trai Giới.
Bát Quan Trai Giới là cầu qua bờ sanh tử, là đèn soi sáng bóng đêm vô minh. Trong kinh Bồ Tát Xử Thai xưng tán Bát Quan Trai Giới là “mẹ sanh chư Phật”. Vì vậy, bất luận Tăng, tục, nam, nữ đều nên thọ trì, ưu bà tắc, ưu bà di tại gia cùng các thiện nam, tín nữ đều nên thọ trì giới này để làm bậc thang xuất thế. Năm chúng xuất gia cũng nên thọ trì, bởi lẽ giới tướng của Bát Quan Trai Giới tuy sẵn đủ trong Sa Di và Cụ Túc Giới, song vì để tăng trưởng công đức (lý do tăng trưởng công đức xem câu vấn đáp thứ năm ở phần sau), chẳng ngại gì tái thọ giới này.
Bản văn này trước hết hiển bày công ích thọ trì Bát Giới, theo thứ tự phân làm mười hai điều, mỗi điều đều trích dẫn kinh để chứng minh về nhân quả trì giới, mục đích giúp người đọc phát khởi tín tâm và vui thích hành theo. Sau đó, chú thích danh nghĩa, trì bày thọ pháp, phân tích các điểm dị đồng trong phép Khai – Già. Lập ra sáu cân vấn đáp để thuyết minh những điều dễ hoài nghi nơi sự thọ trì Bát Giới, hầu giúp mọi người đều như pháp thọ trì, để hiểu được giới quan hệ thế nào đến bản thân, và có thể hành trì theo đúng sự hiểu biết, hầu không còn thối tâm nữa!
Sau cùng trích lời Phật dạy về mối họa hoạn của người xuất gia do vì không trì Bát Giới để cảnh sách họ. Chỉ thẹn học thức thiển lậu, giới luật chưa được thấu đáo, không khỏi sai lầm, nhiều điều chưa biết, ngưỡng mong Ðại Ðức các nơi chỉ dạy thêm cho, thực là bỏ đá thêm ngọc, được nhiều thực lợi, còn mong gì hơn.
Người thọ trì Bát quan trai, giữ gìn đủ 8 giới là:
– Không sát sinh
– Không trộm cắp
– Không hành dâm
– Không nói dối
– Không uống rượu và chất kích thích
– Không dùng vật thực phi thời quá giờ ngọ
– Không đàn ca múa hát và xem đàn ca múa hát; không đeo tràng hoa, thoa vật thơm, xức nước hoa
– Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp.
Nguồn gốc, phương pháp và lợi ích của việc tu tập Bát quan trai
B. Công ích dẫn chứng
Công ích thọ trì Trai Giới chỉ Phật trí mới biết rõ, do lời Phật mới tin nổi. Nay phân làm mười hai việc, dẫn kinh Phật minh chứng.
1. Thoát ly bệnh khổ:
Phàm muốn giữ gìn thân thể luôn được mạnh khỏe, hoặc chán sợ bệnh khổ, muốn cầu mau thoát không thể không trì.
Theo kinh Cửu Hoạnh, Phật dạy chín nguyên nhân đưa đến hoạnh tử. Bốn thứ đầu đều do ăn uống bừa bãi, thứ năm do đường tiêu hóa không tốt, đủ thấy vấn đề ăn uống liên quan mật thiết đến sức khỏe. Nếu y theo Phật dạy, sau ngọ không ăn, tất trong không túc thực (gây bội thực), ngoài không hạ phong, thân được an ổn không tật bệnh, tâm được dễ định lại ít hôn trầm (Kinh nói: “Sau ngọ không ăn được năm phúc: Ít dâm, ít ngủ, được nhất tâm, không hạ phong, thân được an ổn, hoặc giả không họa túc thực”). Kinh Dược Sư nói: “Nếu có người bệnh muốn thoát bệnh khổ hãy vì người này mà thọ trì Bát Trai Giới trong bảy ngày đêm”.
2. Tiêu diệt tội chướng:
Phàm muốn sám hối tội chướng, không thể không trì. Kinh Ưu Bà Tắc Giới nói: “Thọ trì Bát Giới ngoài năm tội nghịch, tất cả các tội khác đều được tiêu trừ”.
Kinh Niết Bàn nói: “Phật dạy xứ Ba La Nại có đồ tể tên Quảng Ngạch, mỗi ngày sát hại rất nhiều dê. Gặp được Xá Lợi Phất, thọ Bát Giới một ngày đêm, do nhân duyên này, mạng chung sanh làm thiên vương Tỳ Sa Môn ở Bắc phương”. Nghiệp sát nặng như đồ phu còn trượng thừa công đức thọ trì Trai Giới một ngày một đêm mà diệt trừ được, huống chi các tội khác nhẹ hơn.
3. Miễn trừ hoạnh họa:
Nếu muốn gia đình và thân thể được yên ổn, không bị các thứ tai họa bất ngờ, không thể không trì. Kinh Tứ Thiên Vương nói: “Chỗ nào mà có người trì giới này quỷ dữ phải lánh xa, trụ xứ ở đó nhờ vậy yên lành. Vì vậy, trong sáu ngày trai thọ trì Trai Giới được phúc rất nhiều”. Lại kinh Pháp Cú Thí Như nói: “Phu nhân vua Ưu Ðiền vào ngày thọ trai, vua vời không đến, gọi đến ba lần, vì đang trì trai nên không tới. Vua liền nổi giận, sai người lôi ra, khiến bắn cho chết, nhưng tên bay ngược lại vua, lần nào cũng vậy, khiến vua đâm sợ, hỏi phu nhân có pháp thuật gì mà khiến được như vậy? Phu nhân đáp rằng: ‘Do nơi phụng kính Như Lai, quy mạng Tam Tôn, phụng trì trai pháp, quá ngọ chẳng ăn, cùng hành tám giới, tất được Thế Tôn hộ trì như vậy’. Vua liền nghe theo phu nhân, đến Phật nghe pháp, tâm được tỏ ngộ”.
4. Viễn ly ác thú:
Nếu có người hạnh kiểm không tốt, sợ bị đọa ác đạo, không thể không trì.
Kinh Thập Thiện Giới nói: “Người trì Bát Quan Trai, thứ nhất không đọa địa ngục; thứ hai không đọa súc sanh; thứ ba không đọa ngạ quỷ; thứ tư không đọa a tu la nên Bát Giới được gọi là Bát Thắng Pháp”.
5. Phúc báo ưu hậu:
Nếu có người sợ đời loạn lạc khan hiếm gạo thóc, chịu khổ đói khát, không thể không trì.
Phật thuyết Hộ Tịnh kinh nói: “Một ngày trì trai được sáu mươi vạn đời dư ăn”. Luận Tát Bà Ða dẫn kinh nói: “Vua cõi Diêm phù Ðề được làm chủ hết thảy báu vật không bằng một phần mười sáu công đức Bát Trai Giới”. Kinh còn nói: “Phật dạy vua Ba Tư Nặc: – Phước của Trai Giới tỏa rộng lan xa, thí như các món trân bảo đầy cả mười sáu nước, đem bố thí không bằng một ngày đêm thọ trì Phật trai pháp. Nếu so sánh phúc đức hai việc này khác nào Tu Di với hạt đậu”.
6. Mau chóng thành tựu
Như người tuổi cao sức kém, sợ không còn ở thế bao lâu, hoặc thân bị giam nơi lao ngục, tánh mạng khó toàn, muốn thành tựu hạnh thù thắng trong một thời gian cực ngắn, không thể không trì.
Bát Quan Trai trì pháp kỳ hạn trong một ngày một đêm, thời gian cực ngắn song công đức rất thù thắng. Kinh kể: “Phu nhân vua Ưu Ðà Tư, tử tướng hiện bày, mạng sống chỉ trong bảy ngày, nên muốn cầu xuất gia. Vua vì nặng tình mãi đến ngày thứ sáu mới thuận. Phu nhân liền xuất gia thọ Bát Trai Giới, đến ngày thứ bảy mạng chung được sanh cõi Thiên”. Hay như trong kinh Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ nói: “Vua Tần Bà Sa La bị thái tử A Xà Thế giam trong bảy lớp ngục thất, từ xa hướng về Thế Tôn, lễ lạy cầu được Mục Kiền Liên truyền cho Bát Giới”. Phàm lúc sanh tử nguy cấp, thọ trì Bát Giới, do nhờ công đức của giới này dễ được thành tựu.
7. Ðời sau được tôn quý
Nếu muốn cầu đời sau làm vua trong thiên hạ, không thể không trì.
Phật thuyết Phổ Ðạt Vương kinh nói: “Khi tiên vương tại thế, có đứa trẻ để chỏm, trai giới theo tiên vương một ngày đêm, phụng hành chánh pháp, giữ ý thanh tịnh, sau này mạng chung, thác sanh làm vương tử, nay được tôn quý, đều do nhân đời trước thọ trì Trai Giới”. Kiền Ðà Quốc Vương kinh nói: “Phật dạy: – Thời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, vua và Ngưu là hai anh em, cùng làm ưu bà tắc trì Trai Giới một ngày một đêm, vua do tinh tiến giữ pháp, không dám lười mỏi, nay sanh làm quốc vương”. Bách Dụ kinh nói: “Phật dạy: – Thời Ca Diếp Phật, có hai bà la môn cùng thọ trai pháp, một người cầu sanh thiên, một người cầu làm vua. Thọ lãnh giới xong trở về trụ xứ, các bà la môn nài mời cùng ăn. Người cầu sanh thiên, do phá trai, không thành ước nguyện. Người kia không ăn, được thành quốc vương”.
8. Ðược sanh thiên thượng
Nếu muốn cầu đời sau sanh Thiên, không thể không trì.
Kinh kể có một thiên nữ, dung mạo đoan nghi, vượt hơn mọi kẻ khác, chư Thiên hễ thấy đều sanh tâm hy hữu. Thích Ðề Hoàn Nhân hỏi do tạo nghiệp gì đời trước mà được phúc báo như vậy. Thiên nữ dùng kệ đáp: “Xưa nơi Ca Diếp Phật, thọ trì Bát Trai Giới, nay được sanh thiên thượng, được phúc báo đoan chánh”. Phật tại Xá Vệ quốc, có năm trăm thiên tử, quang minh biến chiếu Kỳ Hoàn Lâm, cùng đến lễ Phật. A Nan thưa hỏi nhân duyên của chư thiên tử. Phật kể xưa có năm trăm long tử, phụng tu trai pháp, sau khi mạng chung sanh Ðao Lợi thiên. Năm trăm long tử nay là năm trăm thiên tử.
9. Trợ duyên vãng sanh
Như muốn cầu sanh Tịnh Ðộ, không thể không trì.
Kinh nói: “Trung phẩm thượng sanh là nếu có chúng sanh, thọ trì năm giới hoặc Bát Trai Giới, tu các thiện giới, không tạo Ngũ Nghịch, không làm các lỗi, dùng thiện căn này hồi hướng nguyện cầu sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới”. Lại nói: “Trung phẩm trung sanh là nếu có chúng sanh hoặc một ngày đêm trì Bát Trai Giới hoặc một ngày đêm trì Sa Di Giới, hoặc một ngày đêm trì Cụ Túc Giới, oai nghi không khuyết, do công đức này hồi hướng, nguyện sanh Cực Lạc thế giới”. Như kinh dẫn chứng, đủ biết muốn cầu vãng sanh Cực Lạc thế giới không thể không trì Trai Giới. Nên Viên Trung Lang nói: “Ðiều cấp bách phải phát sanh Giới, khuyên người niệm Phật cùng tôi ghi nhớ lời này”.
10. Lâm chung hoan lạc
Nếu công phu niệm Phật chưa đạt mức nhất tâm bất loạn sợ sau khi mạng chung không chắc được vãng sanh, không thể không trì.
Kinh Dược Sư: “Nếu có thể thọ trì bát phần Trai Giới, hoặc một năm, hoặc ba tháng, do thiện căn này, cầu sanh Tịnh Ðộ, nhưng chưa nắm chắc được, nếu nghe thấy danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, lúc mạng chung, có tám vị Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Chí Bồ Tát, Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát và Di Lặc Bồ Tát, dùng thần thông đến, hướng dẫn chỉ bày, được hóa sanh nơi thế giới Vô Lượng Tạp Sắc Chúng Bảo Hoa”. Vì vậy, người thường hay nghiêm trì Trai Giới, dù công phu niệm Phật hãy còn khiếm khuyết, khi mạng chung chưa thấy được Phật A Di Ðà tiếp đón, song nhờ công đức trì trai, có tám vị Ðại Bồ Tát dẫn đạo vãng sanh Cực Lạc. Phật không luống dối, quyết chẳng gạt người. Hành giả tín nhiệm vững chắc lời này, ắt không bối rối, không sợ sệt lúc quỷ vô thường hiện đến. Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai mở bày phương tiện này, không ngoài mục đích giúp người niệm Phật vào giờ phút nguy biến của sanh tử, được bảo đảm vãng sanh. Nên Pháp Hải Quán Lan nói: “Nếu khi mạng chung gân cốt đau nhức, bao nhiêu quyến thuộc sắp phải chia lìa. Hãy nhớ rằng ta có thanh tịnh giới, giúp cho thân tâm an lạc không còn sợ lo”. Nguyện người niệm Phật cùng tôi nghiêm tịnh Trai Giới, để nắm chắc được hoan lạc trong giây phút cuối cùng.
11. Ðược thân đủ tướng hảo
Nếu thấy Phật tướng hảo, tâm sanh hoan hỷ, muốn trong đời sau tu được thân này, không thể không trì.
Kinh Trường Trảo Phạm Chí Thỉnh Vấn nói: “Có bà la môn hỏi Phật tạo nghiệp gì đời trước được thân đủ mọi tướng hảo. Phật mỗi mỗi đáp do nghiệp lực gì đời trước, được quả như vậy”. Lược kể như sau:
Hỏi: Làm sao được thân Kim Cang bất hoại?
Ðáp: Do đời trước xa lìa nghiệp sát hại hữu tình.
Hỏi: Làm sao được tướng có màng mỏng giữa các ngón tay?
Ðáp: Do đời trước xa lìa nghiệp trộm cắp của người.
Ðáp: Do đời trước xa lìa dục nhiễm nam nữ.
Hỏi: Làm sao đạt được tướng lưỡi dài rộng che hết mặt?
Ðáp: Do đời trước xa lìa lời dối trá gạt người.
Hỏi: Làm sao được tướng oai nghi từ tường như sư tử đi?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các chỗ rượu chè buông lung.
Hỏi: Làm sao đạt được vi diệu tướng hảo trang nghiêm thân này?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các thứ ca múa phô sắc.
Hỏi: Làm sao đạt được hương thơm thượng diệu tỏa nơi thân?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các món trang sức, hương, hoa, anh lạc.
Hỏi: Làm sao đạt được tòa kim cang thắng diệu?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các thứ giường kiêu xa, cao rộng.
Hỏi: Làm sao đạt được tướng bốn mươi răng trắng sạch đều đặn?
Ðáp: Do đời trước xa lìa các bữa ăn phi thời.
Hỏi: Làm sao đạt được nhục kế viên mãn trên đỉnh?
Ðáp: Do đời trước nơi chốn đáng cung kính, năm vóc sát đất, không chút mạn tâm, chí thành đỉnh lễ.
Bấy giờ, bà la môn thấy Phật nói nhân quả không sai dối, liền bạch rằng: “Phúc này gọi là gì? Làm sao để thọ trì?” Phật đáp: “Ðây gọi là bát chi tịnh giới. Nếu có thể một ngày một đêm hoặc thường theo chư Tăng thọ trì, được quả như vậy”.
12. Duyên thành Phật đạo
Nếu muốn mau thành Phật đạo, không thể không trì.
Kinh A Hàm nói: “Trì Bát Trai được hết lậu hoặc, vào thành Niết Bàn”. Lại nói: “Muốn thành Thanh Văn, Duyên Giác, Phật thừa đều được như nguyện”. Long Vương Kệ Duyên trong kinh Tạp Bảo Tạng nói: “Phật tại Vương Xá thành, Ðề Bà Ðạt Ða đến chỗ Phật, dùng lời ác hủy báng. A Nan nghe thấy, sanh tâm giận dữ, đuổi Ðề Bà Ðạt Ða đi. Phật kể lại nhân duyên đời trước: – Xưa tại Ca Thi Quốc, có hai anh em long vương, tên Ðại Ðạt và Ưu Bà Ðại Ðạt thường thọ trì Bát Trai Giới vào các ngày trai, do quốc vương hay phạm giới sát, khuyên mãi không thay đổi, nên bỏ đi nơi khác, gặp ác tiểu long. Tiểu long biết mình không bằng, sanh lòng ghen ghét, mắng nhiếc. Ưu Bà Ðạt Ðại muốn diệt tiểu long, Ðại Ðạt khuyên ngăn, trở về chốn cũ. Tam long đó chính là Như Lai, A Nan và Ðề Bà Ðạt Ða”.
Phật tử đeo trang sức dự khóa tu Bát quan trai có đi ngược với giới luật không?
C. Lược thích danh nghĩa
Bát Quan Trai Giới trong các kinh hoặc gọi là Bát Phần Trai Giới, hoặc Bát Giới Trai, hoặc Bát Chi Tịnh Giới, hoặc Bát Chi Trai Pháp, hoặc gọi tắt Bát Giới. Tên tuy có khác, nhưng thực đồng là một. Theo Câu Xá Luận, một là sát sanh; hai không cho mà lấy; ba phi phạm hạnh (khác với tà dâm trong Ngũ Giới); bốn là hư dối; năm là uống rượu; sáu là trang sức hương hoa, đờn ca, múa hát, cố ý xem nghe; bảy là nằm ngồi giường cao rộng kiêu xỉ; tám là ăn phi thời. Lìa tám phi pháp này gọi là Bát Giới. Giới thứ tám “phi thời thực” là trai pháp nên gọi chung là Bát Trai Pháp. Theo Tát Bà Ða, Thành Thật Luận, Trí Ðộ Luận phân “thoa xức hương hoa” và “múa hát xem nghe” làm hai giới, tổng cộng chín giới. Tám thứ đầu là giới, thứ cuối là trai, gọi chung là Bát Trai Giới. Nếu phân giải nghĩa của Trai và Giới thì trong sạch tâm ô nhiễm là Trai (Trai là “ngay ngắn”, ngay lại tâm này, hoặc nói là “trong sạch”, tĩnh nhiếp ý nghĩ. Nhàn thất ở ngoài đời cũng gọi là Trai). Cấm ngăn các lỗi của thân là Giới. Quan có nghĩa do phụng trì Trai Giới này đóng được cửa tam ác đạo.
Thực (ăn) trong Luật chia làm Thời và Phi Thời. Từ minh tướng xuất hiện cho đến nhật trung (đúng ngọ, mặt trời đứng bóng) là Thời. Từ nhật trung cho đến minh tướng (bình minh) xuất hiện là Phi Thời. Thời nên ăn, Phi Thời không nên ăn. Trai chỉ cho thời thực. Thời và Phi Thời nghĩa như thế nào? Luận Tát Bà Ða nói: “Từ sáng sớm đến nhật trung, thế nhân làm việc buôn bán, ăn uống, nên gọi là Thời. Từ ngọ đến giữa đêm, tiệc tùng vui chơi, tìm thú hưởng lạc, tỳ kheo du hành ắt có chỗ phạm, nên gọi Phi Thời”. Lại vì Phật muốn chúng sanh đoạn trừ nhân lục thú, nên dạy chúng sanh ăn như chư Phật. Sáng sớm là giờ chư Phật ăn, mặt trời hướng Tây là giờ súc sanh ăn, mặt trời lặn là giờ quỷ thần ăn. Tỳ kheo học Phật, ăn lúc nhật trung, đó là nghĩa của Thời.
D. Phương pháp thọ trì:
Nếu thọ từ chư Tăng, ắt có nghi quỹ, nên văn này lược bớt (nghi đó). Như trước mắt không có Tăng, trong Luật Nam Sơn cho phép được tự thệ thọ giới trước Phật. Còn như thọ dài hay ngắn, hoặc một ngày đêm, hoặc mỗi tháng sáu ngày trai, hoặc mỗi năm ba tháng, hoặc một năm, hoặc tận hình thọ, tùy theo chí nguyện hoặc sức mỗi người mà tự quyết định.
Thời gian thọ giới nên vào sáng sớm hoặc vào mỗi ngày trai nhật, thọ trước Phật tượng, cho dù tận hình thọ cũng chỉ cần thọ một lần, tùy theo ý mình. Một ngày một đêm là do vì trì pháp của giới này từ nhật trung đến sáng sớm minh tướng xuất hiện là viên mãn (Nguyên văn: “Tự nhật trung chí lập thần minh tướng xuất hiện, tức vi viên mãn”). Nếu trời chưa sáng, đốt đuốc lên ăn, kể như phá trai, phải chú ý điều này.
Mọi việc thiện ác đều hiện nơi gương, vì vậy cần phải tu thiện. Theo Dược Sư Kinh, thọ trì một năm cho đến tận hình thọ là bổn phận của người xuất gia nên làm.