Chùm thơ “tuỳ duyên”
‘’Dùng Bát nhã làm đòn xoay hướng Thiện
Mỗi bài thơ tiêu họa nếu viên hành’’
Cẩn bạch
Quảng Phương – Nguyễn Đình Mỹ
Ảnh minh hoạ.
GỤC ĐẦU
Ta sinh lạm gục đầu bên cửa lợi
Ngẩng cổ lên mộng vỡ lở viên sầu
Ta thôi lạm tỉnh người bên Tứ nhiếp(*)
Tấn bước miên Trung đạo (**) Phật soi đường.
Ta ôm hận gục đầu bên chai rượu
Ngẩng cổ lên ôi cả thập niên rồi
Ta thôi hận lắng lòng trước Bi Dũng
Trọn Từ tâm nương Chánh pháp đức hành.
Ta ấp dại gục đầu bên chén tửu
Ngẩng cổ lên Tình hỡi đã theo chồng
Ta thôi dại thân tâm Thiền Tịnh Mật
Vẹn sát na niệm Phật pháp môn đầu!.
Thế lại – Huế, Đông Chí – Quý Mùi (2003)
(*)Tứ nhiếp pháp: Bố thí – Ái ngữ – Lợi hành – Đồng sự
(*) Trung đạo: lối đi đạt được nhờ thiền Song thân dựa vào pháp môn Niệm Phật tam muội (A Di Đà Phật: Ba và Dược Sư Phật: Mẹ) theo tiến trình: sơ (ly dục-ly ác), nhị (nội tĩnh-nhất tâm), tam (chánh niệm-tỉnh thức), tứ (bất lạc-bất lụy)
DẤU LỆ CHUNG TÌNH
(Quà kính tặng mẹ tròn Lục thập hoa giáp)
Từ độ ấy con tròn hai tuổi
Cha ra đi xứ Huế bỗng thưa người
Mẹ sướt mướt ướt mềm tang phục mỏng
Dắt hai con song bước cỗ quan tài.
Từ độ ấy ngỡ rằng cha ngủ
Có ngờ đâu ba ngủ thẳng luôn rồi
Cha nhắm mắt con theo đường Lục độ(*)
Cố vươn tu tích phước tuệ soi mình.
Cũng từ đó người con côi lạnh
Mẹ một lòng che ấm tuổi thơ con
Chấp cả nhọc nắng mưa trần đơn độc
Hiến tuổi xuân thân góa bụa miên sầu.
Cũng từ đó đời con côi bạc
Mẹ một mình lam lũ dưỡng nuôi con
Quên cả mệt gối chăn già đơn lẻ
Đốt tuổi xanh soi Dấu lệ chung tình.
Giờ hậu vận mái đầu sương quá nửa
Nếp nhăn đầy không còn chỗ nhăn thêm
Cơn bĩ cực nay đến hồi cáo vãn
Hướng thượng lai chúc mẹ hưởng an bình!
Thế Lại – Huế, Tết Đoan Ngọ 2002
(*) Lục độ: bố thí – tinh tấn – trì giới – trí tuệ – thiền định – nhẫn nhục
MÂY TÍM
(Riêng tặng Tình đầu)
Sông Hương soi Huế chiều Sư phạm
Tà áo xinh nguyên tím giảng đường
Nét người Bát nhã(*) mắt buồn đẹp
Say đuối hồn tôi suốt vận người.
Màu áo em mang màu Mây Tím
Màu cả con tim kín tỏ tình
Màu ngát chung trinh ghìm dâu bể
Màu trót lai hy(**) nghĩa vợ chồng!
ĐHSP Huế, mùa Giáng Sinh Giáp Tuất (1994)
(*) Bát nhã: thuần thiện, trác tuyệt và vô nhiễm
(**) lai hy: kiếp sau
BÁT NHÃ NGỘ
(Quà Sinh nhật muộn)
Anh gặp em giữa trời Huế Hạ
Yêu ánh nhìn Bát nhã tùy duyên
Xuyên say đắm địa đàng an định
Đuối mê lòng lạc mát thiên cung.
Dẫu không thể cùng chung mái ấm
Cũng mãi gần mắt ngọc Lưu ly
Dĩ cầu tiến khơi hoài tích cực
Ứng từng giây Trung đạo tâm bình!
Huế, Trọng Hạ – Quý Mão (2023)
NGÀY TÔI BỎ THUỐC
Ngày tôi bỏ thuốc mùa Thu Huế
Mùa thuở mắt em đẹp tựa Kiều
Mùa nối Đông côi mười năm lẻ
Mùa phải xa em trọn kiếp này.
Ngày tôi bỏ thuốc trời xanh bạc
Màu của xe em thuở học đường
Màu nhuốm tang thương tràn tích cực
Màu ngấm bi ai lạc ngập lòng.
Ngày tôi bỏ thuốc chiều loang tím
Tím tựa hoài mong tím tựa cà
Tím áo hàn sương trường Quốc Học
Tím trọn nghìn Thu vẹn nghĩa chờ!
Café Tổng Hội – Huế, 27 / 9 / 2002
NỤ HÔN TRÙNG CỬU
(Riêng tặng hiền thê)
Anh yêu Thanh một chiều Huế mộng
Dáng kiêu sa đôi má ươm hồng
Đầm nhuốm trắng ngập trời khêu gợi
Mắt em tròn vương thánh thiện đoan trinh.
Anh yêu Thanh khả ái nhân từ
Mũi cao kín ngoan hiền kiệm nói
Trán chân trâu trách nhiệm viên đầy
Tóc xoăn trước đường khôn em diệu bước.
Anh yêu Thanh tuổi trần ba sáu
Em kém anh một tá xuân thì
Hai chúng ta chung cùng tuổi Sửu
Trâu anh già thích gặm lưỡi Trâu non.
Anh yêu Thanh Thu chớm xa Hè
Đợi Xuân về hôn lễ se vui
Miên phục vị bình yên rồi đó
Phúc đức bồi lộc thọ mãi sinh đôi.
Anh hôn Thanh Trùng cửu đêm nồng
Hương quyến rũ lần đầu tim rối
Anh ghì lòng xiết chặt thân em
Dâng hiển giác suốt đời tâm quấn quít!
Ngự Bình-Huế, Tết Trùng Cửu 9 – 9 – Kỷ Sửu (2009)
Nguyễn Đình Mỹ