Bồ đề mùa thay lá
Đã vài lần trong vội vã cuồng quay, ngụp lặn trong dòng đời đầy biến động, tôi cảm thấy ngột ngạt giữa những gánh nặng mưu sinh, mong muốn tìm đến chốn bình yên để nương náu.
Những lần mệt nhoài ấy, tôi thường chạy xe ra ngoại ô thành phố để ghé thăm ngôi chùa làng cổ kính thân quen. Ngôi chùa có cổng tam quan nhuốm màu rêu phong, ở nơi đó có gốc cây Bồ đề đã già đứng sừng sững hiên ngang ngay cổng chùa. Chẳng hiểu sao, chỉ cần ngồi dưới gốc Bồ đề, nghe tiếng chuông chùa ngân vang trong buổi chiều bảng lảng khói bếp thơm mùi rơm rạ bao muộn phiền, bao chấp mê, bao toan tính trong tôi đều tan biến theo mây khói. Chỉ còn trong tôi là trái tim phập phồng những nhịp đập yêu thương, là tâm trí trống rỗng nhưng thảnh thơi. Tôi hít hơi thật dài, nhắm mắt lại và ngồi thật lâu dưới gốc Bồ đề, đánh thức mọi giác quan để lắng nghe chính mình đang thì thầm với con người bên trong.
Trải qua bao phong sương tuế nguyệt, gốc Bồ đề nay đã bao nhiêu tuổi có lẽ không ai có thể đoán được chính xác, chỉ biết rằng người dân trong làng đều trân trọng gọi là “cụ Bồ đề”, bởi đời ông bà, tổ tiên sinh ra và lớn lên đã thấy cụ Bồ đề đứng sừng sững ở nơi đây. Từng rễ cây đan từng tầng tầng, lớp lớp như con rồng đang cuộn mình vươn lên. Đứng ở phía xa nhìn về, tán Bồ đề như con hạc đang dang rộng đôi cánh như muốn bay lên. Tán cây Bồ đề quanh năm toả bóng mát như chính Đức Phật đang che chở cho dân làng luôn được sống trong bóng mát bình an.
Tôi tình cờ gặp gỡ và bén duyên với một bà cụ đã qua tuổi 85 là vị khách thường xuyên đến đây. Cụ có mái tóc trắng bạc phơ, hàm răng đen nhuộm thủa xưa, hay bỏm bẻm nhai trầu. Dù ở tuổi xế chiều nhưng bà vẫn nhanh nhẹn, đôi mắt sáng như sao, đôi môi đỏ, cụ gặp tôi lần nào cũng cười như mùa thu toả nắng. Cụ hay cho tôi vài quả cam, vài chiếc bánh lộc. Đôi bàn tay nhăn nheo, lấm tấm những đồi mồi của cụ vẫn đang thoăn thoắt cầm chiếc chổi tre quét lá, tiếng xoèn xoẹt trên nền gạch hoà với tiếng chim ríu rít trên cây làm nên âm thanh cuộc đời sống động.
Nhờ cụ mà tôi hữu duyên được gặp sư trụ trì của chùa, mỗi lần được nghe những giảng giải của sư phụ về Đạo Phật tôi đều rất chăm chú lắng nghe. Với giọng nói trầm ấm nội lực, sư phụ kể cho chúng tôi về nguồn gốc vì sao cây Bồ đề được gọi là cây giác ngộ. Tương truyền rằng năm 29 tuổi vào một đêm trăng tròn, Thái tử Tất Đạt Đa đã rời bỏ cung điện xa hoa lộng lẫy để trở thành người ẩn tu khổ hạnh. Tuy nhiên, Ngài vẫn chưa tìm được sự yên tĩnh trong tâm hồn và chưa tìm ra chân lý. Nhưng tin vào chính mình và qua nhiều quá trình khổ luyện, Ngài đã tìm ra con đường đúng đắn là Trung đạo, con đường tự mình đào sâu suy nghĩ để nhận thức chân lý và dẫn đến sự yên tĩnh, bừng sáng của tâm hồn lẫn trí tuệ. Tin vào con đường ấy mà sau bốn chín ngày thiền định dưới gốc Bồ đề, Ngài đã chìm đắm trong tư suy sâu thẳm, cuối cùng tìm ra chân lý và trở thành vị Phật soi sáng. Sau khi thành Phật, Ngài đã đi khắp nơi để truyền bá đạo giác ngộ cho mọi người, cứu con người ra khỏi bề khổ. Cây Bồ đề được coi là cây có tính thiêng liêng trong Đạo Phật nó là cây giác ngộ, tượng trưng cho sự minh triết. Cách đây 300 năm, có vị Ni đã chiết một nhánh nhỏ từ gốc Bồ đề mà Đức Phật đã thiền định mang tới Sri Lanka trồng. Đến nay, gốc Bồ đề vẫn uy nghi đứng đó và trở thành cội Bồ đề lâu đời nhất thế giới. Cây Bồ đề theo tiếng Phạn là Bodhi, tức sự thức tỉnh, thông suốt. Chỉ khi nào con người thức tỉnh mới có thể thoát khỏi những u mê lầm tưởng mà giác ngộ.
Sau vài tháng do ngụp lặn trong bộn bề mưu sinh, tôi đến thăm chùa vào một buổi chiều tà rơi nắng, những ánh nắng vàng au chuyển dần sang đỏ đổ xuống đường làng làm liêu xiêu bóng cây trong một buồi chiều dịu vợi với khung cảnh trời trong, mây trắng bồng bênh trôi. Hỏi cụ già quét lá hàng ngày nay ở đâu mà đợi hoài không thấy cụ, mới hay tin cụ đã về miền mây trắng. Tôi thấy bóng dáng lạ nhưng giống cụ đến lạ lùng đang miệt mài quét lá thì ra đó là anh con trai của cụ. Sau mỗi ngày đi phụ hồ vất vả, anh lại thay mẹ quét lá ở sân chùa để tìm đến nơi nương náu bình an và mong tích phước lành cho gia đình, để mẹ già có thể mỉm cười nơi chín suối.
Nguồn: Tạp chí Văn hoá Phật giáo
Cô Thắm