Biết phụng dưỡng cha mẹ là phúc lành cao thượng
Phàm con người sanh ra trong đời này, đều phải có mẹ và có cha. Cha mẹ là nơi nương nhờ để cho tái sanh tâm (làm phận sự tái sanh), đầu thai vào lòng mẹ.
Tái sanh tâm ấy là đại quả tâm, trong đại quả tâm gồm có 4 uẩn, cùng với 3 sắc pháp: sắc thân, sắc nam tính hoặc sắc nữ tính, và sắc ý căn kết thành ngũ uẩn (sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn) đầu tiên trong dạ con (tử cung) của người mẹ; tiếp theo những tuần sau sẽ phát sanh ra mắt, tai, mũi, lưỡi và sắc mạng chủ… được sinh trưởng, dưỡng nuôi trong bụng mẹ suốt thời gian gần 10 tháng mới sanh ra đời; hài nhi được nuôi dưỡng bằng dòng sữa mẹ, là một chất nước bổ phát sanh từ trái tim yêu thương của người mẹ, và tình thương yêu che chở của người cha; người con mỗi ngày một khôn lớn, trưởng thành là nhờ công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ.
Hiếu dưỡng cha mẹ tâm thành, phước báu vô lượng vinh danh với đời
Ảnh: Bảo Tâm.
Bổn phận làm con phải biết ơn và đền ơn cha mẹ.
Trong bài kinh Mangalasutta: Kinh An Lành, Ðức Phật thuyết về 38 pháp đem lại sự an lành, hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại, trong đó có bài kệ rằng:
Màtàpitu upatthànam
Puttadàrassa sangaho
Anàkulà ca kammantà
Etam mangalamuttamam.
Này tất cả chư thiên, nhân loại
Một, người con biết phụng dưỡng mẹ
Hai, người con biết phụng dưỡng cha
Ba, từ bi tế độ vợ con
Bốn, có nghề nghiệp không lẫn lộn ác.
Ðiều nào cũng an lành cao thượng.
(Bộ Suttantanipàtapàli, kinh Mangalasutta)
Trong 4 pháp này, xin giảng giải hai pháp đầu:
“Người con biết phụng dưỡng mẹ cha”.
Bổn phận làm con phải biết lo phụng dưỡng mẹ cha, đó là điều an lành hạnh phúc cao thượng.
Ðức Phật dạy rằng:
-Cha mẹ là Ðức Phạm thiên, là vị chư thiên đầu tiên, là vị thầy đầu tiên, là bậc xứng đáng thọ lãnh lễ vật cúng dường của con. (Anguttaranikàya, phần Catukanipàta, kinh Brahmasutta.)
1. Thế nào gọi mẹ cha là Ðức Phạm thiên (Brahmà)?
Ðức Phạm thiên thường có 4 pháp tứ vô lượng tâm: từ, bi, hỉ, xả đối với tất cả chúng sinh như thế nào, bậc làm mẹ cha cũng có 4 pháp từ, bi, hỉ, xả đối với các con cuõng như thế ấy.
Thật vậy, từ khi biết được có con trong bụng, ngày đêm, mẹ cha có tâm từ đối với con, cầu mong rằng: “con của chúng ta có thân thể xinh đẹp, nằm trong bụng được an lạc”.
Như vậy gọi là tâm từ của mẹ cha vô lượng đối với các con.
Ðứa con nhỏ còn nằm trong nôi khát sữa cất lên tiếng khóc, khi nghe tiếng con khóc, người mẹ phát sanh tâm bi liền bỏ mọi công việc để đến với con, bồng ẵm cho bú sữa, dỗ con bằng tiếng ru êm dịu làm cho đứa con nín khóc; hoặc khi thấy con bị mắc bệnh, đau khổ, mẹ cha phát sanh tâm bi mời thầy thuốc đến chữa bệnh cho con chóng khỏi bệnh….
Như vậy gọi là tâm bi của mẹ cha vô lượng đối với các con.
Thấy con mỗi ngày một khôn lớn, biết bò, lững chững biết đi, biết nói, biết cười…, cha mẹ nhìn con mình mà phát sanh tâm hỉ; hoặc khi con đến tuổi trưởng thành, học giỏi, đỗ đạt, mẹ cha cũng phát sanh tâm hỉ, mọi thành công của con là điều hoan hỉ của cha mẹ.
Như vậy gọi là tâm hỉ của mẹ cha vô lượng đối với các con.
Khi con đến tuổi trưởng thành, muốn lập gia đình riêng, mẹ cha lo giúp cho con yên bề gia thất; mẹ cha phát sanh tâm xả đối với con, với ý nghĩ rằng: “Bây giờ con của chúng ta có thể tự lo đời sống của chúng”.
Như vậy gọi là tâm xả của mẹ cha vô lượng đối với các con.
Người con đã trưởng thành, dầu có quyền cao chức trọng trong đời, nhưng theo quan niệm của cha mẹ đối với con, vẫn xem như còn thơ dại; luôn luôn cần sự dạy dỗ của mình để cho con nên người.
Cho nên, tấm lòng của mẹ cha đối với con, khi thì tâm từ phát sanh, khi thì tâm bi, khi thì tâm hỉ, khi thì tâm xả phát sanh tùy lúc tùy thời.
Do đó, Ðức Phật dạy: “Brahmàti màtàpitaro: mẹ cha là Ðức Phạm thiên của các con”.
2. Thế nào gọi mẹ cha là vị thầy đầu tiên của con?
Ðứa con sanh ra trong đời, mẹ cha là vị thầy đầu tiên dạy dỗ cho con biết bú, biết ăn uống, biết ngồi, đứng, đi… tập cho con nói tiếng gọi người này là mẹ – mẹ, người kia là cha – cha, ông bà, chú bác, cô dì v.v…. Mẹ cha dạy dỗ con việc thiện này nên làm, việc ác kia không nên làm v.v….
Khi đến tuổi đi học, các vị thầy khác dạy học chữ – nghĩa, dạy nghề nghiệp, làm ăn nuôi mạng.
Khi có nguyện vọng xuất gia trở thành Sa di, có vị Thầy Tế độ cho phép và truyền Tam quy, dạy cho biết Sa di thập giới v.v….
Khi có nguyện vọng làm lễ thọ Tỳ khưu, có chư Tăng hội họp hành Tăng sự, có vị Thầy Tế độ và 2 -3 vị thầy tụng Natticatuttha-kammavàcà (tụng một lần tuyên ngôn và 3 lần thành sự ngôn) để trở thành Tỳ khưu.
Khi muốn tiến hành thiền định, có vị thiền sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền định để mong chứng đắc các bậc thiền sắc giới, bậc thiền vô sắc giới.
Khi muốn tiến hành thiền tuệ, có vị thiền sư chỉ dạy phương pháp tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả và Niết Bàn.
Do đó, Ðức Phật dạy: “Mẹ cha gọi là Pubbàcariya: vị thầy đầu tiên của các con”; còn tất cả các vị thầy khác đều gọi là Pacchàcariya: vị thầy sau.
3. Thế nào gọi mẹ cha là vị chư thiên đầu tiên của con?
Visuddhideva, đó là bậc Thánh Arahán không hề quan tâm đến lỗi của những người khác đối với Ngài, Ngài chỉ có tâm từ bi tế độ chúng sinh đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho họ mà thôi; chúng sinh lễ bái, cúng dường đến bậc Thánh Arahán được phước thiện vô lượng, có được quả báu an lạc vô lượng kiếp; bởi vì, Ngài là bậc cao thượng xứng đáng thọ lãnh những lễ vật cúng dường của chúng sinh.
Cũng như vậy, cha mẹ không chấp thủ lỗi lầm của các con, luôn luôn tha thứ những lỗi lầm của các con. Cha mẹ có tâm từ bi tế độ các con, chỉ cầu mong cho các con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài. Những người con biết lễ bái cúng dường đến cha mẹ, có được phước thiện vô lượng, có quả báu an lạc vô lượng kiếp, bởi vì, cha mẹ cũng là bậc xứng đáng thọ lãnh sự lễ bái cúng dường của các con.
Do đó, Ðức Phật dạy: “Cha mẹ gọi là vị Pubbadeva: vị chư thiên đầu tiên của các con”.
Nhờ có công ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha, nên người con mới biết được các vị chư thiên khác như Sammutideva: đó là Ðức Vua, xem như vị thiên tử trị vì đất nước; Upattideva: các hàng chư thiên ở cõi trời dục giới, các hàng phạm thiên ở cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, đó là quả do thiện nghiệp của họ đã tạo; Visuddhideva: đó là bậc Thánh Arahán. Những hạng chư thiên này gọi là Pacchàdeva: những bậc chư thiên được biết sau, còn cha mẹ là Pubbadeva: vị chư thiên đầu tiên của các con.
4. Thế nào gọi mẹ cha là bậc xứng đáng thọ lãnh sự lễ bái cúng dường của các con?
Cha mẹ là bậc xứng đáng thọ nhận mọi vật lễ bái cúng dường của các con, bởi vì cha mẹ là người có công ơn sinh thành và dưỡng dục các con nên người, các con được nhìn thấy đời là nhờ có cha mẹ.
Khi con sanh ra đời, nếu cha mẹ không nuôi nấng dưỡng dục từng giờ, từng ngày, từng tháng, từng năm cho con khôn lớn, thì làm gì người con có được thân hình như ngày hôm nay? Như vậy, người con có được hình vóc như thế này, đó là nhờ công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ.
Ðức Phật dạy rằng: “Người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ, chư bậc Thiện trí tán dương ca tụng người con ấy trong đời này, người con ấy sau khi chết, do phước thiện phụng dưỡng cha mẹ, cho quả tái sanh làm chư thiên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc ở cõi trời ấy”. (Bộ Anguttaranikàya, kinh Brahmasutta)
Bổn phận người con đối với cha mẹ:
Công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với các con thật lớn lao vô lượng; bổn phận làm con, dầu là bậc xuất gia cũng như người tại gia đều phải lo phụng dưỡng cha mẹ.
Trong kinh Singalakasutta, Ðức Phật thuyết pháp tế độ cậu Singalaka con của ông trưởng giả trong kinh thành Ràjagaha, trong bài kinh Ðức Phật dạy có đoạn người con có bổn phận đối với cha mẹ như sau (Dìghanikàya, phần Pàthikavagga, kinh Singalakasutta):
Cha mẹ là hướng đằng trước mặt, phận sự người con trai, con gái có 5 điều đối với cha mẹ:
– Cha mẹ đã nuôi dưỡng các con, vậy các con phải có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ, để đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục.
– Các con phải có bổn phận đảm đương lo công việc của cha mẹ.
– Các con phải có bổn phận giữ gìn dòng dõi, nối dòng.
– Các con tỏ ra người con xứng đáng thừa hưởng tài sản, sự nghiệp của cha mẹ để lại.
– Khi cha mẹ qua đời rồi, các con phải có bổn phận làm phước thiện, rồi hồi hướng phần phước thiện ấy đến cho cha mẹ.
Ảnh: Bảo Tâm.
Các con phải làm tròn 5 bổn phận đối với cha mẹ.
* Ðối với người con tại gia:
Mỗi buổi sáng thức dậy sớm trước cha mẹ, người con đun nước rửa mặt, chuẩn bị khăn lau dâng đến cha mẹ; mang bộ quần áo sạch sẽ đến dâng cho cha mẹ. Thay xong, đảnh lễ cha mẹ, rồi đem bộ quần áo dơ đi giặt.
Hàng ngày, người con đem cơm nước ngon lành đến dâng cha mẹ, khi cha mẹ muốn tắm rửa, đem nước ấm dâng đến cha mẹ, lúc khí trời lạnh; buổi tối, người con nên xoa bóp thân thể cha mẹ, để cho máu huyết lưu thông dễ dàng, giãn gân cốt, bớt mỏi mệt. Khi cha mẹ bị bệnh hoạn ốm đau, người con cần phải tìm thầy giỏi, thuốc hay, để về chữa trị cho cha mẹ chóng khỏi bệnh….
Người con phải biết lễ phép, kính trọng cha mẹ, lắng nghe lời khuyên dạy của cha mẹ; bổn phận người làm con cần phải biết lo phụng dưỡng cha mẹ cho đến hết tuổi thọ.
* Ðối với bậc xuất gia là Sa di, Tỳ khưu:
Dầu là vị Sa di, vị Tỳ khưu cũng phải có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ như người tại gia; song có đôi việc không nên làm như: vị Sa di, vị Tỳ khưu không nên đảnh lễ cha mẹ; vị Tỳ khưu không nên đụng chạm trực tiếp đến thân hình của thân mẫu (Tỳ khưu bất đắc dĩ đụng đến thân hình của thân mẫu thì phạm giới tác ác – dukkata).
Ngoài ra, vị Sa di, vị Tỳ khưu có thể lo phụng sự mọi việc, để đem lại sự an lạc cho cha mẹ.
Ðức Phật cho phép Sa di, Tỳ khưu lo phụng dưỡng cha mẹ bằng những thứ vật dụng của mình như: vật thực, y phục, chỗ ở, thuốc trị bệnh…. Ðó là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện trí từ quá khứ cho đến hiện tại.
Bậc Thiện trí tán dương ca tụng những người con biết lo phụng dưỡng cha mẹ của mình.
Tích Vị Tỳ Khưu phụng dưỡng cha mẹ
Một người con trai của một gia đình phú hộ trong kinh thành Sàvatthi, khi đến nghe Ðức Phật thuyết pháp, người con trai ấy phát sanh đức tin trong sạch, xin phép cha mẹ đi xuất gia trở thành Tỳ khưu.
Sau khi trở thành Tỳ khưu, cùng sống với vị Thầy Tế độ suốt 5 năm, theo học pháp học và pháp hành Giới Định Tuệ.
Sau đó, vị Tỳ khưu ấy xin phép vị Thầy Tế độ rời khỏi ngôi chùa Jetavana đi đến một nơi xa ở trong rừng để hành đạo.
Gia đình ông bà phú hộ gặp cảnh sa sút, tài sản bị khánh kiệt, cho đến nỗi hai ông bà phải đi ăn xin, nương nhờ dưới mái nhà của người khác, để sống qua ngày.
Nghe tin cha mẹ của mình đang lâm vào cảnh khổ, vị Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: “Ta đã hành đạo suốt 12 năm qua, mà vẫn chưa chứng đắc Thánh Ðạo, Thánh Quả nào; có lẽ ta là người chưa có đủ pháp hạnh Ba-la-mật. Vậy, ta nên hoàn tục trở về lo phụng dưỡng cha mẹ già đang lâm vào hoàn cảnh khổ, và làm phước thiện bố thí, giữ giới, hành thiền… để tạo duyên lành cho kiếp sau”.
Nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy ra khỏi khu rừng, trên đường trở về kinh thành Sàvatthi, nghĩ rằng: “Hôm nay, ta đến hầu Ðức Thế Tôn nghe pháp xong, ngày mai sẽ đi tìm gặp cha mẹ”.
Canh chót đêm hôm ấy, Ðức Thế Tôn sau khi xả đại bi định, quán xét chúng sinh có duyên lành nên tế độ; trong mạng lưới đại bi, Ðức Thế Tôn nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy có duyên lành chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Vị Tỳ khưu ngồi nghe pháp trong nhóm các hàng đệ tử, Ðức Thế Tôn thuyết bài kinh Màtuposakasutta: ca tụng ân đức cha mẹ đối với con, bổn phận làm con, cả hàng tại gia lẫn bậc xuaát gia đều có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ.
Nghe bài kinh xong, vị Tỳ khưu nghĩ rằng: “Ta vốn có ý định hoàn tục để lo phụng dưỡng cha mẹ, nay Ðức Thế Tôn thuyết pháp dạy bậc xuất gia cũng có thể phụng dưỡng cha mẹ được. Vậy, ta chớ nên hoàn tục, ta là Tỳ khưu cũng có thể phụng dưỡng cha mẹ được”.
Vị Tỳ khưu đi tìm gặp cha mẹ đem về phụng dưỡng; làm nhà cho cha mẹ ở đàng hoàng, hàng ngày Ngài đi khất thực có được cháo, cơm đồ ăn đem về phụng dưỡng cha mẹ trước, còn về phần Ngài, sau đó, đi khất thực có được Ngài sẽ thọ thực sau, có bữa no bữa đói cho nên thân thể của Ngài càng ngày càng gầy mòn. Khi được tấm vải mới nào, Ngài đem dâng đến cho cha mẹ mặc; Ngài lấy tấm vải cũ của cha mẹ, giặt sạch, nhuộm màu, may y để Ngài mặc.
Hàng ngày, Ngài có phận sự lo phụng dưỡng cha mẹ hơn lo cho thân mình. Do đó, Ngài có vẻ gầy guộc xanh xao.
Chư vị Tỳ khưu khác gặp hỏi, Ngài trình bày sự thật lo phụng dưỡng cha mẹ như vậy, quý vị Tỳ khưu khác chê trách Ngài, rồi bạch chuyện này lên Ðức Thế Tôn.
Ðức Thế Tôn cho người gọi vị Tỳ khưu ấy đến, bèn hỏi rằng:
-Này con, hai ông bà già mà con phụng dưỡng là ai vậy con?
-Kính bạch Ðức Thế Tôn, hai ông bà già ấy là thân mẫu và thân phụ của con.
Nghe vị Tỳ khưu bạch như vậy, Ðức Thế Tôn bèn tán dương ca tụng rằng: Sàdhu! Sàdhu! Lành thay! Lành thay!.
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-Con đã hành theo con đường xưa, theo truyền thống của Như Lai đã hành, Ngài thuyết về tiền kiếp của Ngài sanh làm đạo sĩ Suvannasàma đã phụng dưỡng cha mẹ mù đều là đạo sĩ ở trong rừng (Bộ Jàtaka, chuyện Suvannasàmajàtaka).
Ðức Thế Tôn dạy rằng:
-Sự phụng dưỡng cha mẹ là việc làm theo truyền thống của chư bậc Thiện trí.
Nhân dịp ấy, Ðức Thế Tôn thuyết pháp tế độ chư Tỳ khưu, vị Tỳ khưu phụng dưỡng cha mẹ ấy đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Ðạo – Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Trích: Biết phụng dưỡng cha mẹ là phúc lành cao thượng.