Âm nhạc trong kinh Phật

Bài này được viết để khảo sát về một số đoạn văn trong Kinh Tạng Pali có liên hệ tới âm nhạc, để thấy rằng âm nhạc khi sử dụng như một phương tiện hoằng pháp cũng được Đức Phật tán thán.

Đúng là trong luật nhà Phật đã cảnh giới về âm nhạc, đàn hát. Không chỉ với người xuất gia, mà cả với hàng cư sĩ. Thí dụ, Kinh Trường Bộ 31 (DN31) gồm những lời khuyên cho hàng cư sĩ tại gia, có đưa âm nhạc ca múa vào 6 điều nguy hiểm… (Bản Việt dịch của HT Thích Minh Châu: Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt – http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-139_5-50_6-1_17-26_14-1_15-1/#nl_detail_bookmark)

Trong những ngày thọ Bát Quan Trai Giới cũng thế, giới tử phải đọc và thọ trì câu:

“Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, chúng con… xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.” (Bát Quan Trai Giới, HT Thích Trí Thủ – http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75_4-10091_5-50_6-6_17-350_14-1_15-1/)

Những cảnh giới về đàn ca múa hát như thế có thể thấy trong cả Nam Tông, Bắc Tông và Kim Cang Thừa (Phật Giáo Tây Tạng). Đơn giản vì âm nhạc dễ làm say đắm và phóng tâm.

Nếu tâm không định tĩnh, tất nhiên không tu thiền được, tất nhiên không thể đắc trí huệ, và do vậy không thể giải thoát.

Cũng y hệt như các bậc ba mẹ thời nay thường khuyên học trò đừng xem truyền hình nhiều quá, cần để thì giờ học thi, luyện thi, không thì sẽ rớt. Thời nay thi rớt là những cơ hội tốt trong việc làm sẽ khó tìm. Nhưng vẫn không có bậc ba mẹ nào cắt đứt dây TV, vì cũng không phủ nhận được vai trò cần thiết của TV trong đời sống, và có khi sử dụng như một phương tiện giáo dục.

Đức Phật đưa ra các giới luật và lời khuyên là vì lòng từ bi, vì người tu hễ thi rớt là sẽ trôi lăn trong vòng sinh tử, khó có cơ hội tìm thoát. Trong đó, những hiểm nguy rình rập là nằm ngay ở các căn tiếp cận với đàn ca múa hát, và hạn chế là để ưu tiên điều tâm. Nhưng tận cùng, Đức Phật dạy điều cốt tủy, chỉ là giữ tâm cho an tĩnh để đạt trí tuệ giải thoát, để ly tham, ly sân, ly si.

Nhưng một điều cần thấy, Đức Phật bản thân cũng là một nghệ sĩ tuyệt vời. Ngài sử dụng ngôn ngữ tuyệt vời. Để giải thích những điều khó nghĩ bàn, để dạy những giáo lý vi diệu, thường xuyên đọc những bài kệ (hay bài thơ tóm lược) bất khả tư nghì, và nhiều ngàn năm sau ngôn ngữ của Ngài, dù được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau, vẫn mang sức mạnh của trí tuệ sâu thẳm.

Do vậy, chúng ta có thể tin rằng, với tâm hồn nhạy cảm và trí tuệ vi diệu, Đức Phật không thực sự cứng nhắc xem âm nhạc như một trở ngại, mà có khi còn là một phương tiện hoẳng pháp. Vì nói cho cùng, khi đọc Kinh Phật, chúng ta nhiều chỗ thấy nhạc trời được trình tấu để cúng dường, để tán thán công đức… Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, chư Thiên đã tới tụ hội, tấu nhạc, hương hoa cúng dường.

Nếu Đức Phật xem âm nhạc là trở lực, tất nhiên các kinh sẽ không muốn ghi lại các chi tiết đó.

Nhưng ai là người chép lại kinh điển? Thí dụ, nói rằng 500 vị a la hán tụ hội để ghi lại Kinh Phật, nhưng có lẽ quyết định ghi vào hay bỏ ra những sự kiện có khi chỉ là ý riêng của vài vị đaị tăng chủ tọa, như ý Ngài Ca Diếp hay Ngài A Nan. Cũng như trong các chùa ngày nay, cho dù đông cả trăm vị tăng, nhưng mọi chuyện có khi chỉ là chủ ý riêng của ngài Trụ Trì.

Một thực tế của đời này cần thấy: không có âm nhạc, sẽ không hoằng pháp thuận lợi. Bởi vì phương tiện hoằng pháp thời nay phần lớn là truyền hình, là phát thanh, là trang web, là các lễ hội đông người… không có ca nhạc múa hát là bất lợi vô cùng.

Có thể thấy, một ca khúc nếu gây được ý thức nơi người nghe về tính vô thường của vạn pháp chắc chắn có khi nằm sâu trong tiềm thức người nghe hơn các bài thuyết pháp đầy lý luận.

Trong một cơ duyên hầu chuyện Đại Đức Thích Đăng Châu (nguyên là nhạc sĩ Hoàng Quốc Bảo khi chưa xuất gia), tôi có hỏi rằng tại sao Thầy không sáng tác nhạc nữa. Thầy nói rằng Thầy thuộc dòng thiền Trúc Lâm (hệ thống của Thiền Sư Thích Thanh Từ) bảo thôi thì thôi. Tôi im lặng, không dám nói gì khác.

Trong một cơ duyên khác, được biết nhạc sĩ Nghiêm Phú Phát trong nỗ lực thành lập Ca Đoàn Hương Thiền đang tuyển nhân sự, sáng tác, tập luyện hàng tuần ở Chùa Liên Hoa để hỗ trợ cho việc hoằng pháp ở hải ngoại, tôi đã hoan hỉ hết lời ca ngợi và tin rằng có thể đây sẽ là một phương tiện để dậy lên một phong trào tu học mới.

Có những lý do để tin rằng nghệ thuật có thể hỗ trợ cho việc hoằng pháp.

Tôi có một bà dì, nghĩa là em của mẹ. Dì làm công quả hàng tuần dưới bếp một ngôi chùa ở Santa Ana. Mỗi ngày dì tụng hai thời kinh sáng tối, và nghĩ như thế là đủ. Có khi, tôi nói dịu dàng với dì rằng như thế là chưa đủ, vì ai cũng phải tu nhiều kiếp, mà phải tu ngày đêm không để dính một niệm tham sân si nào mới được, cứ phải nhìn tâm như mèo rình chuột; những lúc như thế, dì lại kể về những chuyện dưới bếp các chùa Quận Cam, và rồi nhắc tới các chùa ngày xưa ở Việt Nam.

Dì đang sống trong căn chung cư người già của chính phủ Mỹ, đời sống tạm ổn. Vấn đề là, dì kể rằng, hễ rãnh rang là dì bật máy truyền hình lên, xem phim bộ Hàn Quốc. Đó cũng là một trái nghịch của nghiệp lực khác nhau. Trong khi tôi bật máy TV, là xem đàì CNN để theo dõi tin tức vì nghiệp của mình là quan sát những chuyển biến lớn của thế giới, của Hoa Kỳ… thì dì tôi chỉ xem phim bộ. Mỗi lần dì bảo tôi chở ra phố Bolsa thuê phim về, là lấy một lúc hai chục, hay ba chục băng đĩa để khỏi mất công ra nhiều lần.

Các phim bộ Hàn Quốc tất nhiên là nhạc hay, tài tử đẹp, cảnh thơ mộng, chuyện tình đẫm lệ và ngang trái. Như thế, mắt nhìn say sưa, tai nghe êm dịu, phê biết mấy… Tôi nghĩ, xem phim bộ miệt mài thì làm sao giải thoát được, nhiều phần là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đó cũng sẽ kéo mình về lại cõi trần gian này.

Tôi vẫn luôn luôn lo sợ rằng, có lúc nào trong khi dì đang say sưa xem phim và đột ngột đứng tim ra đi; có thể ngay khi đó, dì sẽ phải tái sanh về thành phố Seoul hay về một ngôi làng tuyết phủ ở Nam Hàn để xem tiếp các bộ phim nhiều tập bằng ngôn ngữ gốc, khỏi qua chuyển ngữ. Những lúc đó, tôi cũng suy nghĩ, phải chi có những bộ phim nào về Phật Pháp hay hơn phim bộ Hàn Quốc…

Nhu cầu sử dụng nghệ thuật để tiếp cận hoằng pháp đã được quan tâm từ nhiều thế kỷ rồi. Thí dụ, phương tiện của thơ, của nhạc, của kịch, của cải lương, của phim… Thơ thì xưa nhất là có Kinh Pháp Cú, rồi những vần Kệ Trưởng Lão; nghĩa là sử dụng nghệ thuật ngôn ngữ. Nhiều thế kỷ sau, có ngài Milarepa của Phật Giáo Tây Tạng đã soạn những vần thơ và ca khúc để hát; tiếc là thời này chưa có ký âm pháp để ghi lại các điệu nhạc do ngài hát cho dân làng. Về hội họa từ xưa đã có tượng Đức Phật, có tranh vẽ trên các vách đá, có mười tấm tranh chăn trâu của lộ trình Thập Mục Ngưu Đồ, và nhiều nữa.

Nhu cầu hoằng pháp ngày cảng khẩn thiết, dù chúng đang sống ở trong hay ngoài nước. Đặc biệt là trong thời Internet, khi các tôn giáo khác vào VN với phương tiện tiếp cận hùng hậu. Bạn có thể vào mạng Yahoo Việt Nam, một nơi đông người vào nhất tại VN, sẽ thấy trong phần Hỏi & Đáp tràn ngập các nhà truyền đạo của các tôn giáo khác.

Trong một vài lần thăm Sư Tinh Cần và Sư Huệ Tấn, hai vị sư Nam Tông mà tôi có cơ duyên thân cận tại Garden Grove, tôi phân tích rằng các tôn giáo khác đều chiêu mời tín đồ bằng thọ lạc. Nghĩa là, khi đi nhà thờ thì phụ nữ mặc áo đẹp, màu rực rỡ, trang điểm cẩn trọng, nam giới trang phục chỉnh tề; dàn nhạc thánh ca thì tuyệt vời, khi tín đồ cùng hát lên cũng sẽ gợi lên những cảm xúc êm dịu. Trong khi hát thánh ca, có khi họ đứng vói cao lên, và mắt nhìn ngước cao… nếu chúng ta niệm thân thường xuyên, sẽ thấy ngay những tư thế chuyển đổi bằng cách ngước cổ hát, vươn cao tay, nghe tiếng hát và tiếng đàn piano sẽ thấy thọ lạc và nhầm rằng đó là thần khải. Thực ra, họ chỉ cần đi bơi liên tục một tuần lễ, hay đi nghỉ mát nơi một vùng biển vắng chừng vài tuần cũng sẽ thấy thọ lạc… mà không cần cầu nguyện gì với ai.

Có một điểm để giản trạch rằng: tác phẩm nghệ thuật nào có thể giúp hoằng pháp, và tác phẩm nghệ thuật nào bất lợi cho việc hoắng pháp?

Cách đầu tiên có thể dựa vào để giản trạch, rằng tác phẩm nào nêu lên được ý nghĩa tánh Không, tánh vô ngã, tánh vô thường của vạn pháp đều là phương tiện cần thiết để hoằng pháp.

Đức Phật có lần cảnh giác, rằng giáo lý cao diệu về Tánh Không của Đức Phật sẽ tới một thời bị ngay cả các nhà sư bỏ rơi để chạy theo các tác phẩm nghệ thuật êm tai, chải chuốt.