Mất hai người con trai, người mẹ hành nghề sát sinh mới thấm thía luật nhân quả và thức tỉnh
Buổi chiều hôm ấy, Công trút hơi thở cuối cùng trong tiếng mõ, lời kinh của Ban hộ niệm chùa Quán Thế Âm. Công ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Không rên la, không đau đớn. Khuôn mặt hồng hào như người đang ngủ. Điều kỳ lạ là toàn thân tỏa mùi thơm như hương trầm và mềm mại.
Một hôm, bà Thanh bảo Tuấn:
– Con học xong lớp 12 thì ở nhà giúp mẹ. Học hành tốn kém. Ra trường, lương ba cọc ba đồng, sống sao nổi?.
Tuấn nghe lời mẹ. Vài tháng sau khi ra trường, Tuấn đã trở thành anh đồ tể sắc tay. Tiền kiếm như nước. Gái trong vùng mê Tuấn như điếu đổ.
Nhiều gia đình muốn gả con cho Tuấn vì Tuấn vừa khỏe mạnh, chịu thương chịu khó lại kiếm được tiền. Cuối cùng, Tuấn quyết định lấy cô Kim, hoa khôi của thị trấn.
Cưới con trai đầu, bà Thanh làm cỗ tưng bừng suốt 3 ngày 3 đêm. Khách mời dự đông nườm nượp. Gà, vịt… giết không biết bao nhiêu mà kể. Bà Thanh khan hết cả tiếng nhưng mặt vẫn ngời ngời như hoa. Song niềm vui ngắn chẳng tày gang.
Trước hôm đón dâu một ngày, đêm muộn, khi khách về hết, chú rể lụi hụi mắc lại đèn chùm trong phòng ngủ. Chẳng hiểu hí hoáy thế nào bị điện giật chết luôn. Ngày cưới trở thành ngày tang. Bà Thanh ngã ngửa người, khóc ngất lên ngất xuống.
Gắng gượng lo xong đám tang cho con, bà Thanh lăn đùng ra ốm. Suốt ngày nằm bệt trên giường. Mỗi bữa chỉ húp được vài thìa cháo loãng. Đúng 3 tháng 10 ngày, bà mới nhóc nhách ngồi dậy, lần thành giường tập đi. Bà bắt đầu tin vào “Luật Nhân Quả”, và “Ác Nghiệp Sát Sinh” mà mình gieo rắc suốt mười mấy năm qua… Rồi bà thỉnh mời các nhà sư đến nhà, lập đàn tế lễ giải nghiệp suốt 3 ngày 3 đêm. Rồi mua cả tạ lươn, ốc, cá phóng sinh… Bà bảo thằng Công, con trai út của bà:
– Mẹ cả đời vất vả hành nghề sát sinh cũng chỉ vì muốn tạo dựng tương lai tốt đẹp cho các con. Con gắng học cho tốt, sau này, có công ăn việc làm đàng hoàng, tử tế, đỡ khổ con ạ!.
Hiểu quy luật nhân quả để đời người không uổng phí
Công đang học lớp 12 trường huyện. Nó học rất giỏi, mơ ước thi vào trường Đại học an ninh. Một buổi chiều, đi đá bóng cùng đám bạn về, nó thấy đau đầu gối chân trái. Cứ nghĩ là do chạy nhiều nên nó cứ cắn răng chịu đau. Mấy tuần sau, đầu gối sưng to, nhức nhối suốt đêm không ngủ, bà Thanh đưa nó đến Bệnh viện tỉnh Lâm Đồng khám.
Xét nghiệm, phát hiện thấy khối u to như quả trứng gà, bác sĩ kết luận nó bị ung thư xương. Nó khóc ầm lên. Bà Thanh thì chết lặng.
Nghe bác sĩ tư vấn, bà đưa thằng Công xuống bệnh viện Chợ Rẫy điều trị. 5 tháng sau, khối u càng to, bà chuyển nó về bệnh viện đa khoa Sài Gòn, điều trị thêm 5 tháng nữa.
Bác sĩ khuyên nên cắt chân nhưng thằng Công giãy nảy. Nó mới 18 tuổi đầu. Cắt chân đến tận đùi thì đâu còn ước mơ trở thành chiến sĩ an ninh. Bà Thanh vuốt nước mắt đưa con về nhà, chữa trị bằng đông y.
Cứ nghe đồn ở đâu có thuốc hay, thầy giỏi là bà lần mò tìm đến. Của nả trong nhà lần lượt đội nón ra đi. Cho đến lúc sạch sành sanh cũng là lúc khối u ở chân Công to như cái cối đá lỗ. Da căng mọng, tím tái, gân xanh nổi chằng chịt.
Một ngày, khối u vỡ ra. Máu mủ chảy lênh láng khắp giường. Mùi hôi thối bốc lên nồng nặc. Ruồi nhặng từ đâu bay đến ào ào. Bà Thanh phải giăng mùng kín mít suốt ngày. Chốc chốc, bà cầm cái quạt, đập đánh “độp” vào thành màn, xác ruồi rơi rào rào. Thế mà một lúc sau, cả cái màn lại đen kịt ruồi bâu.
Mùi hôi thối bốc sang cả những nhà xung quanh. Hàng xóm phải đóng cửa nhà kín mít. Công người gầy guộc, chỉ còn da bọc xương. Khối u ở chân trông càng to, càng khủng khiếp. Vết loét ngày càng ngoác rộng, trông như miệng con chó thui. Công kêu la rền rĩ suốt ngày đêm vì đau đớn.
Nghe người trong thôn mách dùng nhựa con cóc nhỏ lên vết loét, khối u sẽ khỏi, bà Thanh đi bắt liền 5 con, dùng dao chặt đứt đôi thân rồi quẹt lên thành miệng vết loét. Tiếc rẻ, bà dùng vải xô, bó chặt thân 5 con cóc lên trên. Thằng Công hét toáng lên như con lợn bị chọc tiết:
– Xót quá mẹ ơi! Con không chịu được nữa đâu. Mẹ giết con đi. Con đau đớn lắm!…
Một buổi chiều. Một nhà sư già bộ hành ghé vào nhà bà xin hớp nước. Biết hoàn cảnh éo le của bà, nhà sư bảo:
– Cháu nó bị thế này là do gánh nghiệp sát sinh của chị. Mệnh cháu hết rồi. Không cứu được đâu. Chi bằng chị đưa cháu đến Quán Thế Âm tịnh thất ở xã Hiệp Đức, huyện An Đức, tỉnh Lâm Đồng. Ở đó có Ban hộ niệm Phật A Di Đà. Chị nhờ sư trụ trì và các Phật tử trong Ban hộ niệm tụng kinh niệm Phật, trợ niệm, trợ duyên, giải nghiệp cho cháu bớt đau đớn, ra đi thanh thản, vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc…
Bà Thanh cất công đưa con trai đến chùa Quán Thế Âm xin các sư thầy niệm tụng kinh Phật, trợ niệm, trợ duyên giải nghiệp cho Công bớt đớn đau. Cửa Phật từ bi quả tình luôn giang rộng cánh tay với mẹ con bà…
Sư chú Hiền ở chùa Quán Thế Âm kể:
– Lúc ra mở cửa, vừa nhìn thấy cái chân voi với khối u khủng khiếp bốc mùi hôi thối nồng nặc, máu mủ chảy tong tỏng, tôi muốn buồn nôn, sởn hết cả da gà… Đã nhận hàng trăm ca hộ niệm nhưng chưa bao giờ tôi thấy có người bệnh nào lại trong tình trạng kinh khiếp đến như vậy. Nhưng nhìn vào khuôn mặt xác xơ, khổ đau tột cùng của người mẹ cùng lời van xin đến tội tình: “Xin sư chú rủ lòng thương cứu vớt. Mẹ con con đã hết đường sống rồi!”
Nhìn cảnh cháu Công còn da bọc xương nằm rên rỉ, tôi không đành lòng chối từ. Tôi liền thưa chuyện với sư thầy trụ trì, đại đức Thích Giác Nhàn. Thầy bảo:
– Cửa Phật từ bi che chở mọi khổ đau của kiếp người. Con cứ nhận họ vào.
Từ hôm đó, hàng ngày, vào mỗi buổi sáng và chiều, sư chú Hiền, sư chú Sơn và 40 Phật tử trong Ban hộ niệm đã ngồi xếp bằng thành vòng tròn, tụng kinh niệm Phật cho Công. Mùi hôi thối bốc ra nồng nặc khắp căn phòng. Một số người không chịu đựng được đã chạy ra ngoài nôn thốc nôn tháo.
Tiếng kêu la của Công nhiều khi át cả tiếng mõ, tiếng chuông. Hai sư chú và các Phật tử vẫn dốc lòng nhất tâm hộ niệm suốt 2 tiếng. Máu mủ từ vết loét to ngoạc nhỏ tỏng tỏng xuống tấm mền lót bên dưới. Một lúc, lại phải thay tấm mền khác.
Ngày 3 lần, sư chú Sơn đi găng tay y tế, luồn qua miệng khối u, thọc sâu vào bên trong đến tận khuỷu tay, móc dần những cục thịt thối ra để cho Công bớt đau. Chú làm ân cần, dịu dàng… Khuôn mặt chú hiền từ. Vừa làm, chú vừa nói với Công:
– Sư chú biết con đau lắm! Nhưng nếu con cứ kêu rên như thế sẽ khiến con càng đau, càng mệt. Con hãy nương vào lời tụng niệm A- Di- Đà Phật mà các bác, các cô chú ở đây đang tụng cho con. Và con hãy tụng theo. Sư chú tin, con sẽ bớt đau.
Công làm theo. Từ bấy, nó thấy bớt đau nhiều…
Sư chú Sơn kể: “Mấy ngày sau, Công không kêu rên nữa. Cậu thành tâm niệm Phật. Điều kỳ lạ là mùi hôi thối bớt dần. Ai cũng ngạc nhiên và càng tin vào sự vi diệu của đạo Phật. Vì thế, càng hết lòng hộ niệm cho cậu ấy.”
Một tháng sau, vào buổi sáng, khi sư chú Sơn đang lựa tay khẽ khàng móc từng mảng thịt thối trong khối u khổng lồ, Công khẽ khàng bảo:
– Chú Sơn ơi! Tối qua con nằm mơ thấy Phật A- Di- Đà về đón con đi. Ngài mặc áo vàng rực, tay cầm đóa sen vàng. Ngài mỉm cười với con chú ạ!.
– Thế con có sợ chết không? – Chú Sơn hỏi.
– Con chỉ sợ đau chứ không sợ chết. Chú vẫn bảo con: “Nếu con thành tâm niệm Phật hàng ngày, con sẽ được vãng sanh về cõi Tây Phương cực lạc còn gì!”.
Sư chú Sơn mỉm cười gật đầu.
Công bảo:
– Con muốn gặp mẹ con!
Khi mẹ ngồi bên, Công nói, giọng nhẹ nhàng nhưng rành rọt:
– Mẹ ơi! Con bị bệnh thế này là do mẹ tạo nghiệp sát sinh suốt 15 năm đó. Mẹ đừng làm nghề giết mổ gà vịt nữa nhé. Dù cho phải đi ăn xin mẹ cũng không được làm. Mà mẹ chuyển hẳn sang ăn chay trường đi. Còn ăn mặn là còn cộng nghiệp cho những người hành nghề giết mổ.
Buổi chiều hôm ấy, Công trút hơi thở cuối cùng trong tiếng mõ, lời kinh của Ban hộ niệm chùa Quán Thế Âm. Công ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Không rên la, không đau đớn. Khuôn mặt hồng hào như người đang ngủ. Điều kỳ lạ là toàn thân tỏa mùi thơm như hương trầm và mềm mại. Mềm đến độ sư chú Sơn nhấc cả hai tay của nó lên, lắc lư. Cổ tay, những ngón tay trắng hồng của Công lắc lư theo như múa. Cả khán phòng bỗng vang lên “A- Di- Đà Phật!” như tiếng reo vui của niềm tin của những người con Phật vào Phật pháp nhiệm màu.
Cũng ngay buổi chiều hôm ấy, mẹ cậu đã xin sư trụ trì xuống tóc đi tu.
Trong lễ hỏa táng Công tại thành phố Đà Lạt, Đại đức Thích Giác Nhàn đã kể một tích trong Kinh pháp cú:
“Lúc Đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo ở tại tịnh xá Trúc Lâm. Cách đó không xa, có tên đồ tể Cunda sống bằng nghề mổ heo.
Mỗi lần giết heo, ông ta trói heo thật chặt vào cột và nện nó bằng một cây chày vuông rồi banh hàm và rót nước sôi vào họng, đổ nước sôi lên lưng heo, làm tuột lớp da đen và thui lớp lông cứng bằng một bó đuốc. Cuối cùng, ông cắt đầu heo bằng một thanh kiếm nhọn rồi xẻ thịt, lột da.
Cunda hành nghề như thế gần hai mươi năm. Dù Đức Thế Tôn ở tịnh xá cách đó không xa mà chẳng khi nào Cunda cúng dường Ngài, dù là một cành hoa hay một nắm cơm. Hắn cũng không làm một việc công đức nào cả.
Cho đến một ngày, ông ta mắc bệnh và dù ông ta vẫn còn sống nhưng lửa của địa ngục A-tỳ đã bốc cháy trước mặt. Khi cực hình địa ngục giáng xuống đồ tể Cunda, ông ta bắt đầu kêu eng éc, bò bằng tay và đầu gối.
Người nhà rất kinh khiếp, tìm mọi cách bịt miệng ông ta, chặn các cửa và nhốt ông ở trong nhà. Suốt bảy ngày, chịu sự đau khổ cùng cực của địa ngục, ông luôn mồm rống eng éc như heo.
Vài Tỳ kheo đi ngang qua cửa nhà ông, nghe tiếng kêu eng éc ồn ào, khi về tịnh xá, bạch với Đức Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn! Suốt bảy ngày qua cửa nhà đồ tể Cunda đóng kín và ông ấy vẫn tiếp tục giết heo. Thế Tôn nghĩ xem, biết bao nhiêu heo bị giết. Thật từ trước tới nay chưa thấy ai độc ác và dã man như thế.
Đức Thế Tôn nói:
– Này các Tỳ kheo! Ông ta không giết heo trong bảy ngày qua. Sự trừng phạt phù hợp với việc làm ác đã xảy đến đối với ông ta. Ngay khi ông ta còn sống, cực hình của địa ngục A-tỳ đã hiển hiện. Vì cực hình này, ông ta bò tới bò lui trong nhà, kêu la eng éc như một con heo suốt bảy ngày. Hôm nay ông ta đã chết và bị đọa vào địa ngục A-tỳ.
Nói xong, Thế Tôn đọc pháp cú:
“Nay sầu, đời sau sầu. Kẻ ác hai đời sầu. Nó sầu, nó ưu não. Thấy nghiệp uế mình làm”.
Thầy Thích Giác Nhàn bảo:
– Chuyện đồ tể Cunda bị quả báo, chịu cực hình suốt bảy ngày lúc cuối đời, được ghi lại trong kinh tạng là một điển hình của quả báo nhãn tiền. Không chỉ chuyện ngày xưa, ngay hiện tại đây, hãy bình tâm nhìn ra xung quanh chúng ta để nhận thấy kết cục thảm hại của những người, những gia đình sống ác, làm các điều bất thiện. Không kể họ là ai, nếu không biết phục thiện, chạy theo cái ác thì chắc chắn sẽ bị quả báo xấu.
Và không cần đợi xem những quả báo ở kiếp sau, ngay trong đời kiếp này thì chúng ta cũng có thể thấy quả báo nhãn tiền của nhiều người. Chính những cái thấy về nhân quả một cách chân xác, xảy ra ngay trước mắt ấy sẽ thức tỉnh chúng ta hướng về điều thiện, bỏ ác làm lành để bản thân, gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Hoàng Anh Sướng