Nói về Thất giác chi (Bảy pháp giác ngộ)
Thất giác chi hay Thất bồ đề phần chỉ cho bảy pháp tu tập đưa đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn, không còn khổ đau trong sáu nẻo luân hồi.
Thất giác chi (pi. sattabojjhanga, h.七覺支, ja. shichikakushi, Trong ba mươi bảy phần Bồ đề thì Thất giác chi là phần thứ sáu.
Theo Phật giáo Đại thừa, Thất giác chi được trình bày như sau:
1 là Trạch pháp (擇法) phân biệt các pháp đúng sai, chọn phương pháp tu đúng; 2 là tinh tấn (精進) siêng năng nỗ lực kiên trì; 3 là Hỷ (喜), sự hoan hỷ; 4 là Khinh an (輕安) tâm nhẹ nhàng, thứ thái; 5 là Niệm (念),, sự chú tâm tỉnh giác; 6 là Định (定), tâm được tập trung, chuyên chú không tán loạn; 7 là Xả (捨) buông xả, không vướng chấp bất cứ thứ gì.
Phật giáo Nguyên thủy trình bày Thất giác chi như sau: Niệm (Sati), Trạch Pháp, (Dhammavicaya), Tinh tấn (Viriya), Hỷ (Piti), Khinh an (Passadhi), Ðịnh (Samadhi) và Xả (Upekkha).
Về bản chất Thất giác chi của hai truyền thống không khác nhau, chỉ khác trật tự chữ ” Niệm” và “Trạch pháp”.
Có thể tu tập Thất giác chi như một tiến trình được không?
Niệm giác chi.
Chánh niệm, tỉnh giác ghi nhận mọi thứ đang xảy ra một cách đơn thuần chân thật và rõ ràng. Đây là nền tảng quan trọng để tu tập phát triển sáu phần giác chi sau
Có thể tu tập phát triển Niệm giác chi qua cách niệm thân, thọ, tâm, pháp (Tứ niệm xứ)
Tinh tấn giác chi (Cần giác chi).
Tu tập Niệm giác chi làm cho tâm tỉnh giác sáng suốt, cân bằng thì tinh tấn giác chi thúc đẩy năng lượng của sự nỗ lực siêng năng mạnh mẽ dứt trừ, ngăn chặn lời nói hành vi, việc làm, suy nghĩ xấu ác bất thiện; thúc đẩy, làm phát sinh, phát triển các pháp lành, thanh tịnh, hướng thiện, giác ngộ (Tứ chánh cần)
Cụ thể là siêng năng toạ thiền, học pháp, tụng kinh, dứt trừ chuyển hoá tập khí phiền não thói hư tật xấu, tính ác tham chấp, đố kỵ, ích kỷ, ngã mạn, lười biếng…
Trạch pháp giác chi.
Trí tuệ suy lường các pháp, mọi thứ theo tính vốn có của chúng, là chọn pháp đúng trong đời sống tu tập. Trí tuệ trạch pháp rất quan trọng giúp người tu học nhìn nhận rõ ràng minh bạch về mọi mặt của đời sống, nếu chọn pháp sai sẽ sống sai, làm sai, tu sai thì kết quả sẽ không tốt là đương nhiên
Ví như chọn xuất gia tu hành, phát triển giá trị đạo đức trí tuệ là hướng tâm cao thượng khác với người thế tục chọn danh lợi tiền tài thỏa mãn lạc thú thế gian làm mục đích sống. Đây là trạch pháp. Người tu chọn hành thiền hay niệm Phật hoặc trì chú làm công phu thường xuyên là trạch pháp; tìm minh sư, đạo tràng tu học tốt cũng là trạch pháp; người mới tu, chuyên tâm thực hành giới định tuệ hay làm truyền thông Phật giáo cũng là trạch pháp
Hỷ giác chi.
Tu tập niệm, trạch pháp, tinh tấn tốt, hỷ lạc sẽ phát sinh. Tu tập phát triển tâm hoan hỷ, khoáng đạt, rộng mở vui vẻ, an lạc sẽ thúc đẩy tiến trình tu tập thăng hoa. Nói theo ngôn ngữ thông thường hỷ là nàng lượng sức sống tích cực vui vẻ tràn trề. Cái hạnh phúc mà thế gian đi tìm không ngoài tâm hỷ lạc
Định giác chi.
Nhìn từ góc độ động tĩnh, thì tinh tấn, trạch pháp, hỷ có tính động và ba giác chi tiếp theo có tính tĩnh.
Định là sự vững vàng, tập trung, chuyên chú không tán loạn, dao động của tâm. Có nhiều cách tu tập phát triển định như chú tâm vào một đối tượng như hơi thở, câu thoại đầu, câu thần chú, câu niệm Phật, một đề mục giáo lý hoặc là tập định tâm với các đối tượng diễn ra trong đời sống. Ngồi thiền là phương pháp phát triển định tốt nhất. Tu tập định, phát triển định có ý nghĩa quan trọng trong việc tu tập hướng đến thành tựu trí tuệ giác ngộ giải thoát. Các phương pháp tu tập theo Phật giáo đúng hướng thì chắc chắn phải đi ngang qua cửa định. Có thể nói mọi nâng lực, trí tuệ diệu dụng được phát huy là nhờ yếu tố định
Khinh an giấc chi (Tĩnh giác chi).
Khinh an ở đây là trạng thái tâm nhẹ nhàng, thư thái, yên ắng nhờ tu tập năm giác chi trước, các tâm bất thiện, tập khí phiền não được chuyển hoá, dịu bớt, lắng xuống. Khi giải phóng, cởi mở, những gánh nặng phiền não tập khí cũng như tâm vượt thoát một số trói buộc vướng mắc, cố chấp tự nhiên được nhẹ nhàng thư thái yên tĩnh
Xả giác chi.
Trong tứ vô lượng tâm, xả là pháp cuối cùng, ở thất giác chi cũng vậy.
Xả nghĩa đơn giản là không dính mắc, không vướng chấp, là buông bỏ.
Người tu tập thất giác chi, nhờ quán xét tư duy sáu pháp thuận xả mà có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm trụ vào tính bình đẳng, tâm trụ vào tính chánh trực, tâm không còn vướng mắc mà trụ vào tính tịch tĩnh gọi chung là xả, cũng gọi là xả giác chi.
Người tu tập có khả năng diệt hết khổ; đối với các hàng hữu học, các hành như sở kiến của mình mà tư duy quán sát sẽ đạt cứu cánh; nhìn rõ trong các hành thấy rõ lỗi lầm, đối Niết bàn vĩnh viễn thấy rõ công đức.
Nếu là A la hán như tâm giải thoát, tư duy quán sát, khiến đạt cứu cánh và sẽ có được sự tương ưng giữa vô lậu và tác ý, tâm trụ vào tính bình đẳng, tâm trụ vào tính chính trực, trụ vào tính tịch tĩnh thì, đó gọi là xả giác chi.
Ở nghĩa thông thường tùy theo căn cơ trình độ, nghiệp thức, vướng mắc chướng ngại mà thực hành phát triển pháp xả phù hợp.
Ví dụ bản chất của thiền thứ 4 là xả niệm thanh tịnh.
Tu tập thành tựu được một chút thành quả mà không tu pháp xả, vướng chấp vào đó sẽ chướng ngại trên lộ trình giác ngộ giải thoát.
Theo kinh Tương ưng, tu tập 1 trong 7 hoặc theo thứ lớp đều tốt. Do trú chánh niệm như vậy, với trí tuệ tư sát, quyết trạch, thành tựu được quán sát pháp ấy. Theo đó Trạch pháp giác chi bắt đầu phát sinh trong vị ấy. Khi tu tập Trạch pháp giác chi, với trí tuệ quyết trạch, tư sát pháp ấy, thì tinh tấn bắt đầu phát khởi. Tinh cần tu tập tinh tấn giác chi hướng đến viên mãn thì Hỷ giác chi bắt đầu phát khởi. Hỷ giác chi tu tập đến viên mãn thì hành giả có thân khinh an và tâm khinh an, Khinh an giác chi phát khởi. Khinh an giác chi tu tập đến viên mãn, thì hành giả có lạc, có lạc tâm sinh, tâm trở nên định tĩnh, Định giác chi bắt đầu phát khởi. Định giác chi tu tập đến viên mãn, hành giả khéo trú xả. Xả giác chi bắt đầu phát khởi, tu tập xả, xả giác chi đi đến viên mãn hướng đến giải thoát giác ngộ cuối cùng.
TS. Thích Hạnh Tuệ