Chánh niệm – nghệ thuật sống tỉnh thức

Ngày nay, với xu hướng sống nhanh, sống vội và hầu hết chúng ta bị cuốn vào vòng xoáy xã hội, nhiều người kịp nhận ra sự mất cân bằng trầm trọng nơi con người mình và kịp thời trở về với việc chăm sóc đời sống tinh thần và tâm linh.

Trong số các phương pháp thực hành tâm linh, thiền chánh niệm (còn gọi thiền tỉnh thức, thiền minh sát) là một lựa chọn của số đông người. Thiền chánh niệm được nhiều người tiếp nhận và thực hành vì tính phổ quát của phương pháp luyện tâm này. Không luận là xuất gia hay tại gia, chẳng kể là người theo Phật giáo hay tôn giáo khác, thậm chí không theo tôn giáo nào, ai cũng có thể thực hành thiền chánh niệm.

Thế nhưng, trước khi bàn đến vấn đề thực hành thiền chánh niệm, chúng ta cần nhìn lại những hoạt động thường ngày của mình và chấp nhận rằng, nếu không được rèn luyện kỹ năng sống chánh niệm, trong hầu hết thời gian, ta sống trong thất niệm.

Chánh niệm nhắc cho chúng ta cần chú tâm đến những hoạt động đang làm và ghi nhận phản ứng của tâm mình trong thời điểm đó.

Chánh niệm nhắc cho chúng ta cần chú tâm đến những hoạt động đang làm và ghi nhận phản ứng của tâm mình trong thời điểm đó.

Thất niệm: bệnh của số đông

Đi đến chùa trong những ngày lễ hội, để dép bên ngoài chánh điện, vào lễ Phật, khi đi ra, mang lộn dép người khác về nhà. Điều này không ai muốn, cho dù đôi dép mình mất đi có thể cũ hơn, xấu hơn, nhưng ta không bằng lòng với mình và tự trách, sao mà chểnh mảng thế. Thường thì đồ vật nào gắn bó với mình lâu dài thì ta gắn vào đó cái tình và không muốn xa rời nó.

Trường hợp đôi dép này cũng vậy; từ thất niệm, ta đi đến bất an, thậm chí bất an nhiều ngày sau đó. Để lạc chìa khóa và đỏ mắt đi tìm vẫn không thấy đâu, khi mệt quá, muốn hoa mắt thì thấy nó ở ngay trên bàn, mà do dọn dẹp, ta xới tung lên, từ chỗ tương đối ngăn nắp giờ trở nên bề bộn, che lấp xâu chìa khóa là vật chúng ta cần tìm.

Có khi tệ hơn là kêu thợ mở khóa đến hoặc tự mình đập phá một vài ổ khóa rồi mới tìm thấy xâu chìa khóa. Lòng bắt đầu bực bội, ta không hài lòng, bất an với chính mình vì thất niệm. Có khi tay đang nắm cây viết mà cứ loay hoay tìm cây viết. Có người kéo gọng kính, gác công cụ hỗ trợ đôi mắt lên đầu, gọng kính vẫn an tọa ở vành tai, mà cứ đi tìm đôi kính ở đâu. Tìm hoài không ra, bí quá, hỏi người nhà có thấy đôi kính đâu thì họ cười chỉ ngay trên đầu mình. Ta cười chữa ngượng nhưng trong lòng thật bực, tự trách mình sao mà thân một nơi, tâm một ngả như thế!

Có câu chuyện này có vẻ tiếu lâm mà có thật, chính tôi được nghe. Một cô nọ kể rằng, chuyện xảy ra trên một chuyến máy bay nội địa và cô nhớ suốt đến giờ. Hôm đó, cô đi từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Trên chuyến bay, cô tiếp viên phục vụ mỗi hành khách một hộp chứa ba chiếc bánh mì tròn. Phần mình, cô ta nhanh tay cất vào giỏ, trong khi người đàn ông ngồi bên cạnh thì đặt hộp bánh trên bàn ăn trước mặt ông ta.

Ngồi một lát, cô ta bất giác đưa tay lấy hộp bánh của ông hành khách ngồi bên cạnh và mở ra ăn tỉnh bơ trước sự chứng kiến đến ngạc nhiên của ông này. Ông trố mắt nhìn cô cứ xé từng mẩu bánh mì bỏ vào miệng. Cô nghĩ thầm, cái ông này sao mất lịch sự quá đi, người ta ăn mà cứ dòm miệng. Thích ăn thì lấy phần mình ăn, sao cứ vô duyên dòm mình ăn khó chịu quá. Lại là người khác phái nữa chứ… Nghĩ thì nghĩ, ăn vẫn cứ ăn, cô ta lần lượt ăn hết ba chiếc bánh mì. Đến khi tiếp viên thông báo máy bay sắp hạ cánh, cô sửa soạn hành lý để chuẩn bị xuống máy bay. Đưa tay vào chiếc giỏ mang theo bên mình để sắp xếp lại vài vật dụng cá nhân, cô giật thót mình khi phát hiện hộp đựng bánh mì nằm gọn ghẽ trong giỏ của mình. Tâm trạng lẫn lộn nhiều cảm xúc đan xen: lúng túng, xấu hổ và tự trách. Giờ cô mới hiểu được ánh mắt mở to ngạc nhiên nhìn chằm chằm vào cô lúc nãy.

Thì ra, do thất niệm, cô đã ăn phần bánh của ông hành khách ngồi bên cạnh. Cô cúi đầu xấu hổ, nhưng đành quẳng cục “lơ” chứ không thể mở lời xin lỗi. Quá mắc cỡ, khi đi ra cửa máy bay, ông khách ngồi bên bước ra trước, cô cố tình nán lại nhường nhiều người bước tiếp để lảng tránh ánh nhìn của ông ấy. Thật là một bài học nhớ đời về sự thất niệm.

Thất niệm là giao phó sự bình an và hoàn cảnh sống của mình cho người khác để rồi bất an, bực bội, xấu hổ… Điều này không ai muốn, nhưng mấy ai trong chúng ta không có những trải nghiệm về sự thất niệm của mình mà vài ví dụ vừa nêu là những điển hình.

Chánh niệm có khó không?

Chánh niệm là sự tỉnh giác, là sự chú tâm đến những gì đang xảy ra nơi ta trong giây phút hiện tại, một cách vô tư không phê phán hoặc so sánh. Chánh niệm là không bị mê đắm bởi những trạng thái tâm tốt và không cố gắng lẩn tránh những trạng thái tâm không tốt, cũng không đeo bám theo sự dễ chịu hay trốn chạy cảm giác khó chịu.

Chánh niệm nhắc cho chúng ta cần chú tâm đến những hoạt động đang làm và ghi nhận phản ứng của tâm mình trong thời điểm đó. Trong tu thiền, bạn đặt sự chú tâm của mình vào một đối tượng nào đó, thiết thân nhất là chọn hơi thở làm đề mục chú tâm. Chú tâm đơn thuần là đang nhận biết luồng hơi đi vào cơ thể, luồng hơi đi ra khỏi cơ thế.

 

Thế nhưng chú tâm một cách trọn vẹn vào đối tượng không hề dễ dàng đối với người mới thực hành, vì tâm ưa duyên theo các ý tưởng khác đi lang bạt kỳ hồ trong thế giới tâm tưởng. Khi tâm bị trôi giạt khỏi điểm tựa này, thì người tu chánh niệm cần nhắc nhở rằng, tâm của bạn đang lang thang và những gì bạn cần nên làm vào lúc này là đem tâm của bạn về lại với đề mục.

 

Chánh niệm, sự chú tâm đơn thuần trên đối tượng và khi không duy trì được sự chú tâm trên đối tượng thì cũng phải nhận biết tâm đã vắng mặt và đi rong.Ngay lúc mất chú tâm, hành giả phải kịp thời phát huy chức năng nhắc nhở rằng chúng ta đang bị mất tập trung vào đối tượng và nhờ chánh niệm tái lập chính nó. Ngay khi bạn nhận biết mình không còn có sự chú tâm, thì sự chú tâm trở lại với bạn ngay lập tức.

Sự chú tâm trên đối tượng trong quá trình thực hành thiền rất khó, nhất là người mới bắt đầu. Thứ nhất, việc này khó vì bình thường, con người quen sống với tâm lăng xăng trong các mối quan hệ xã hội, lăng xăng với các công việc thường ngày, nếu không tập luyện, không thể nào có khả năng chú tâm trong một thời gian lâu vào một đối tượng thiền quán. Thứ hai, trong cảnh động, tâm bận rộn lăng xăng, ta không có cơ hội ngồi “nhìn” tâm mình để thấy nó lăng xăng cỡ nào. Trong không gian yên tĩnh, trong tư thế ngồi tĩnh lặng, tâm không bị chi phối vào các hoạt động thô thiển thường ngày, ta mới thấy tâm ta chao đảo, lăng xăng như một nồi súp đang sôi trên bếp!

Chỉ khi ngồi thiền trong yên lặng, các ý tưởng không mong đợi xô nhau ùa về, khởi lên trên bề mặt ý thức. Những ý tưởng qua rồi như những chiếc lá rụng nằm sắp lớp ngổn ngang trong hồ nước tâm thức, nay có dịp, từng lớp, từng lớp trỗi lên.

Các thiền sư ví cái tâm chưa thuần của chúng ta như con chó con, đi tí là đứng lại ngửi ngửi, đưa mõ ngửi chỗ này, chạy đến ngửi chỗ kia, không lúc nào yên. Tôi dí dỏm nghĩ mình chẳng khác gì… trâu bò! Như bò, trâu sau khi về chuồng, rảnh rồi nằm nhai lại khi màn đêm buông xuống, con người “nhai” lại ý tưởng trong những lúc ngồi hành thiền, vì lúc này “rảnh” tay chân, không bận rộn với các công việc lăng xăng bên ngoài. Cũng như tên các tập tin còn lưu ảo trên thanh công cụ của máy tính sau khi đóng tập tin.

Hiểu điều này, ta không nản hoặc tự ti khi thấy sự hành thiền của mình không đưa đến kết quả mong muốn. Ta muốn chú tâm vào hơi thở, tâm vẫn cứ mặc tình rong chơi. Dù mình không hề muốn, nó nghĩ về tương lai vẫn còn mờ mịt xa, rồi nhớ việc này, hồi tưởng việc kia, ngay cả những việc đã qua từ lâu lắm. Đừng nản lòng, cứ chú tâm vào đối tượng đã chọn để thực hành.

Có vị giảng sư nói vui rằng, giữ thân đâu tâm đó khi hành thiền là duy trì đời sống hòa hợp giữa thân và tâm mà không để chúng ly dị nhau. Lòng kiên nhẫn của ta gặp nhiều thử thách trong giai đoạn khởi đầu này. Những ai vượt qua được những khó khăn đặc trưng trong chặng đầu này mới có thể đi tiếp trên con đường thực tập. Kiên trì là một người bạn quý lúc này.

Khi tâm rời đối tượng, cần chánh niệm nhận ra ngay điều này, kéo tâm trở về với đối tượng. Cứ kiên trì như thế, trong vòng 30 phút ngồi thực tập hơi thở, nếu tâm đi chơi 100 lần, thì phải 100 lần đem tâm về với hơi thở. Nếu tâm trượt khỏi đối tượng mà lén đi chơi 1.000 lần, thì  vẫn phải 1.000 lần nhẹ nhàng đem tâm về. Cứ hình dung ta đưa một con trâu chưa thuần ra ruộng cày. Nó không muốn nỗ lực đi theo đường cày mà chướng khí chạy lên bờ, ta phải đưa nó về đường cày đang kéo dở. Nó lại chống đối kéo đi nơi khác, ta cứ thế đưa nó về đường cày đang đi. Vậy đủ biết chú tâm trên đối tượng thiền quán là rất khó, đòi hỏi sự nỗ lực, kiên trì và quyết tâm rất cao từ người thực hành.

Đừng ảo tưởng bắt chân ngồi xuống, thân ta yên là tâm theo đó liền yên và có chánh niệm ngay đâu. Pháp mầu không đến như vậy mà đây là cả một hành trình xuyên suốt thời gian, đòi hỏi ý chí và nghị lực mà không phải ai cũng làm được. Người biết thực hành thiền đã ít, người nỗ lực để giữ chánh niệm trong mỗi thời ngồi thiền lại càng ít hơn; và hiếm hoi hơn nữa, như vài vì sao lác đác trên bầu trời rạng sáng là người có thể duy trì thời khóa hành thiền chánh niệm hàng ngày trong cuộc sống của mình.

Duy trì chánh niệm

Chánh niệm được thực hành hiệu quả nhất trong môi trường yên tĩnh để không bị sự chi phối của môi trường bên ngoài. Thêm vào đó, sự thực hành đem lại kết quả nhiều nhất khi hành giả trong tư thế ngồi, vì với tư thế này, các hoạt động thô của tay, chân và các giác quan được hạn chế đến mức tối đa, nhờ đó, hành giả dễ dàng tập trung vào đối tượng cần chú tâm và ghi nhận các cảm thọ sinh khởi. Điều này không có nghĩa suốt ngày ta ngồi trên bồ-đoàn trong căn phòng yên tĩnh để thực hành thiền chánh niệm, điều này không thể đối với một con người bình thường.

Ngược lại, nếu thực hành thiền chánh niệm chỉ khi nào ngồi trên bồ-đoàn, ngoài ra, khi ta trở về với cuộc sống xô bồ thường ngày không chánh niệm nữa thì đâu lại vào đó, không có tác dụng gì cả. Nên lưu tâm rằng, mỗi ngày chúng ta thực hành ở tư thế ngồi – tư thế thực hành phổ biến nhất – là để thuần thục kỹ năng thực hành sự chánh niệm, tỉnh thức mà áp dụng kỹ năng này vào tất cả hoạt động của mình trong mọi lúc, mọi nơi, thông qua các tình huống cuộc sống.

Các em học sinh học môn đạo đức, giáo dục công dân là để biết và thuần thục nếp sống đạo đức để ứng xử có đạo đức và văn hóa với tất cả mọi người, trong mọi lúc, mọi nơi chứ không phải vào lớp học môn này mới thể hiện đạo đức. Ta học môn toán là để có kỹ năng nhằm ứng dụng các phép tính vào trong thực tế sinh động để góp phần giải quyết vấn đề cuộc sống cho con người. Ta luyện nói một ngôn ngữ nước ngoài nào đó trong phòng lab nhằm có kỹ năng sử dụng ngôn ngữ ấy trong cuộc sống đời thường để giao tiếp, truyền đạt thông tin chứ không phải ra khỏi phòng lab là thôi.

Những thành công trong phòng thí nghiệm hóa học, sinh học, vật lý… phải được đem ra ứng dụng trong cuộc sống đời thường, giải quyết những vấn đề thường ngày của con người thì sự thành công kia mới thực sự có ý nghĩa. Thiền chánh niệm cũng như vậy, nó chỉ có giá trị khi trở thành chất liệu sống của hành giả.

Kỹ thuật và nghệ thuật chú tâm, theo dõi cảm thọ và những phản ứng của thân cũng như tâm có được trong những lúc ngồi thiền là chất liệu để nuôi sống chánh niệm của chúng ta trong những tình huống, môi trường sinh hoạt khác. Giữ chánh niệm trong môi trường bình thường quả là một điều khó khăn, vì cuộc sống đời thường với bao âm thanh, sắc màu, các mối quan hệ con người, công việc trách nhiệm cần chu toàn… nên tâm ta bị lôi bên này, kéo bên kia. Điều này chẳng khác nào một cỗ xe cột vào cổ của năm, sáu con vật, mạnh con nào, con nấy kéo cỗ xe đi về hướng mình muốn.

Hơn nữa, thời gian ta chọn môi trường yên tĩnh để thực hành thiền trong tư thế ngồi chỉ có 30 phút đến 1 tiếng đồng hồ, còn 23 tiếng hoặc nhiều hơn nữa trong một ngày ta sống với môi trường động, thì việc duy trì chánh niệm trong hiện tại là một điều vô cùng khó khăn. Thế nhưng, khó không có nghĩa là không thể. Ta vẫn có thể thực hành trên các hoạt động thường ngày với thời gian chánh niệm ngày càng nhiều, với chất lượng ngày càng cao nếu ta chăm rèn kỹ năng này trong những thời ngồi thiền thường xuyên trong ngày. Mức độ chánh niệm trên các hoạt động thường ngày của một hành giả cho ta biết hiệu quả, nội lực, kỹ năng và kỹ thuật thực hành thiền của người ấy trong các giờ ngồi thiền cố định.

Chánh niệm ngay cả khi rời bồ-đoàn

Nhiều người phấn khởi chia sẻ, độ rày tôi thực hành thiền chánh niệm tốt lắm, tâm yên lắm, chú tâm dễ dàng trên hơi thở. Thời gian ngồi cũng tăng lên, lúc đầu ngồi được 20 phút mà giờ ngồi 45 phút mà chân không đau tê… Khi nói như vậy, người ấy mặc nhiên xem việc thực hành thiền là thời khóa ngồi thiền cố định của mình.Như vậy, ngoài giờ này ra, bộ chúng ta không “thực hành thiền” sao? Đức Phật, vị thầy dạy phương pháp thiền định dạy các đệ tử của Ngài, được ghi lại trong kinh sách rằng, chánh niệm cần duy trì ở mọi lúc, ban ngày, ban đêm, canh đầu, canh giữa, canh cuối”(Trung bộ kinh, số 53: kinh Hữu học; số 125: Điều ngự địa).

Không những vậy, trong rất nhiều bài kinh, Đức Phật dạy cần duy trì chánh niệm trong tất cả các tư thế, hành vi, động tác của con người. Cụ thể, chúng ta cần thực hành “khi đi tới, khi đi lui, tôi đều tỉnh giác. Khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh, tôi đều tỉnh giác. Khi co tay, khi duỗi tay, tôi đều tỉnh giác. Khi mang y kép, y bát, tôi đều tỉnh giác. Khi ăn, uống, nhai, nuốt, tôi đều tỉnh giác. Khi đi đại tiện, tiểu tiện, tôi đều tỉnh giác. Khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng, tôi đều tỉnh giác”(Trung bộ kinh, số 27: Tiểu kinh dấu chân voi; kinh số38; Đại kinh Đoạn tận ái, kinh số 39; Đại kinh Xóm ngựa, kinh số 51; Kandaraka, kinh số 107; Ganaka Moggallana, kinh số 112; kinh Sáu thanh tịnh, kinh số 125;kinh Điều ngự địa, Tăng chi bộ kinh, chương Bốn pháp, phẩm XX, kinh số 198; chương Mười pháp, phẩm X, kinh số 99).

Như vậy, thực hành chánh niệm không chỉ trong lúc hành thiền cố định với khoảng thời gian nhất định trong ngày, mà ứng dụng sự chú tâm, tỉnh giác trong cuộc sống hàng ngày là điều rất cần thiết. Nếu không có chánh niệm ngoài giờ hành thiền, thì cũng không thể có chánh niệm trong lúc hành thiền, vì chúng đi đôi và hỗ trợ nhau.

Hơn nữa, chánh niệm là một kỹ năng, nên càng thực hành, càng nhuần nhuyễn, càng điêu luyện và ít hao tốn năng lượng để phải gồng mình, cố gắng mà nó dần biến thành một nếp sống, một phản xạ vô điều kiện, tự nhiên như hơi thở của mình. Nếu khi đang hành thiền, ta chọn đối tượng chú tâm là hơi thở, thì trong sinh hoạt hàng ngày, chú tâm vào mỗi hành động đang làm mà tạm “quên” đi việc chú tâm vào hơi thở là cách thực hành thiền chánh niệm trong đời sống bình thường. Khi nghỉ ngơi hay chờ đợi, thay vì để tâm nhảy lui về quá khứ hay mơ màng viển vông nghĩ tưởng tương lai, ta chú tâm vào hơi thở. Nếu biết thực hành như vậy, sự chờ đợi qua đi nhẹ nhàng, ta lại không bỏ phí thời gian.

Ví dụ khi đang đi ngoài đường, người thực hành chánh niệm tỉnh giác biết tuân thủ luật giao thông, chú tâm và làm chủ phương tiện mình đang điều khiển, chú tâm quan sát những người cùng tham gia giao thông di chuyển gần mình, quan sát đường đi và lường những tình huống có thể xảy ra để kịp thời xử lý. Khi gặp đèn đỏ, người chánh niệm biết dừng đúng vạch, điềm tĩnh hít thở trong chánh niệm, chứ không tỏ vẻ nôn nóng, sốt ruột, chen lấn để càn lướt vượt lên. Cứ như vậy, chánh niệm càng nhiều, ta càng tỉnh giác, khả năng làm chủ cảm xúc của mình càng cao. Nhờ đó, chúng ta nhìn nhận vấn đề xuyên suốt, khách quan, có nhiều phán đoán chính xác, quyết định đúng đắn, phản ứng hợp lý trước sự tác động của môi trường xung quanh.

Chánh niệm là chìa khóa của tâm bình an thật sự mà chỉ những ai thực hành mới cảm nhận hết sự nhiệm mầu của phương pháp thiền này.

Liên Trí