Bí quyết để được phú quý và trường thọ

Phật nói ba đời không có vọng ngữ, thì lưỡi có thể đưa ra liếm đến chóp mũi. Phật tại nhân địa, đời đời kiếp kiếp không có vọng ngữ, do đó khi Phật đưa lưỡi ra thì có thể che hết khuôn mặt. Nếu không chịu tu nhân thì sao lại có quả báo?

Phật pháp nói “Quả báo thông tam thế” (nghĩa là quả báo thông ba đời). Thứ nhất là hiện báo, đây là tạo thiện ác rất nặng, đời này thay đổi vận mạng, liền được báo ứng. Thứ hai là sinh báo, chỉ đời sau thọ báo ứng, quả báo không ở đời này. Thứ ba là hậu báo. Hậu báo thì không nhất định ở đời nào, có thể ngàn vạn kiếp sau.

Vì quả báo nhất định phải “hội đủ nhân duyên” mới có thể báo ứng. “Tạo” của bây giờ là nhân, nếu duyên không hội đủ, quả báo không thể hiện tiền. Nhưng nhân của nghiệp tồn tại, sớm muộn khi gặp duyên, quả báo sẽ hiện tiền. Vì vậy, trong cửa Phật thường nói “không phải không báo, chỉ vì thời khắc chưa đến”… Tuy có ác nhân, không có ác duyên, đời này không chịu quả báo. Có nhân của ác, đời này vẫn không ngừng tạo ác, thì duyên ắt đã có rồi. Nhân duyên hội đủ, ác báo sẽ rất nhanh chóng hiện tiền trong đời này. Chúng ta có thiện căn, đời này đoạn ác tu thiện, duyên ác đoạn rồi, thiện duyên tăng trưởng hàng ngày, tích tụ việc tu mỗi ngày, thiện báo ắt có thể đến sớm hơn. Thiện báo lớn nhất là được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Hiểu rõ nhân quả ba đời, mới biết được trên thế gian này không thể có việc chiếm lợi ích của người khác, cũng không có việc phải chịu thiệt thòi. Oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp vay trả lẫn nhau, báo đi báo lại, chân tướng của lục đạo là thế đó. Đây là việc thê thảm, đau khổ làm sao! Hiểu rõ tướng ảo của quả báo liên tục, đời này dù có bị thiệt thòi, bị lừa, phải nghĩ đó là trả nợ, thì nợ sẽ trả xong; còn người khác nợ ta, mình đem bố thí, không cần nữa. Tâm của chúng ta thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ khai mở trí tuệ, tu hành như vậy, nhất định được chứng quả.

Nhân của khỏe mạnh trường thọ là “Vô úy bố thí”, phóng sanh cùng với không sát sanh đều thuộc vô úy bố thí. Ảnh: Internet.

Nhân của khỏe mạnh trường thọ là “Vô úy bố thí”, phóng sanh cùng với không sát sanh đều thuộc vô úy bố thí. Ảnh: Internet.

Tổ Ấn Quang cực lạc đề xướng “Liễu Phàm tứ huấn”, mục đích là giúp chúng ta thật sự tin vào nhân quả báo ứng. Trong xã hội hiện thời, đây là việc lớn khẩn thiết nhất. Vì sao vậy? Phật pháp suy thoái, nhà Nho cũng bị bỏ rơi, lòng người không nơi nương tựa để về. Tư tưởng, kiến giải của chúng ta không có tiêu chuẩn, thì thế giới sẽ đại loạn. Trong đời loạn lạc, nếu ai ai đều tin vào sự thật của “Nhân quả báo ứng” thì khi khởi tâm động niệm sẽ biết ý tứ một tí, sẽ giúp nhiều cho sự ổn định, trật tự của xã hội. Do đó, Ngài cực lực đề xướng “Liễu Phàm tứ huấn”, tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện, tự cầu nhiều phước. Tiêu chuẩn của thiện ác là gì? Ngài dùng “Cảm ứng thiên” làm tiêu chuẩn của thiện ác, đoạn ác tu thiện; dùng “Di Đà Kinh Yếu Giải” để làm sạch thân tâm của chúng ta, cầu sanh Tịnh độ.

Phước đức, trí tuệ, mạnh khỏe, trường thọ đều là do “Nhân” của bố thí mà được. Tài bố thí thì được giàu tài lộc, pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, vô úy bố thí thì được khỏe mạnh sống lâu. Tiền tài, giàu sang ai ai cũng muốn có, trí tuệ mọi người đều muốn, mạnh khỏe trường thọ càng mong muốn. Ba thứ này đều muốn được mà không chịu tu nhân thì đi đâu mà cầu? Cầu không được đâu. Duy có tu nhân thì mới được quả báo.

“Phú quý vinh hoa”, chuyện vui không thể tranh giành mà được. Trong số mạng có thì không giành cũng có, trong mạng không có thì dù tranh giành cũng không có được… Do đó người xưa nói “Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định” (Cái ăn cái uống đều được định sẵn), không trồng “nhân” làm sao có “quả”? Đã hiểu rõ chân tướng sự thật của thế gian, chúng ta muốn được thiện quả thì cố gắng mà đi tạo thiện nhân.

Phải hiểu rằng, cưỡng đoạt của kẻ khác, mà số của mình đã định sẵn là có, thì thật là oan uổng, vì nếu không lấy của người khác thì mình cũng sẽ có bấy nhiêu đó. Người bị kẻ khác cướp đoạt làm tổn hại là vì trong số mạng của họ vốn không có. Nếu không bị kẻ khác lấy đi thì cũng tiêu hao mất thôi. Vậy mới phù hợp với định luật nhân quả.

Tiền tài là có trong số mạng, trong số mạng không có thì không thể phát tài. Nếu trong số mạng không có tiền mà bạn có cách phát tài thì Phật Thích Ca Mâu Ni cũng bái quý vị làm thầy. Vì Ngài không có cách gì để làm được, quý vị đã vượt qua khỏi nhân quả, làm đảo lộn, phá vỡ luật nhân quả, pháp xuất thế gian đều không siêu vượt định luật nhân quả, điều này chúng ta nhất định phải biết. Thật ra “Miếng ăn miếng uống, đã được định trước rồi”. Vậy ai quyết định? Tự mình định. Đời này nhiều tiền là do quá khứ đã tu “tài” bố thí nhiều. Đời này thông minh trí tuệ là do trong quá khứ tu nhiều “pháp” bố thí. Đây là quả báo đời này được. Phật nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”. Muốn biết đời trước đã làm những gì, hãy xem đời này nhận quả báo ra sao; muốn biết quả báo đời sau thế nào, những gì làm trong đời này chính là nhân của quả báo đời sau.

Đã biết rằng tiền bạc, phú quý là có trong số mạng thì cầu nó để làm gì?… Hiểu được nhân quả, báo ứng thì mới có thể an phận thủ thường. Ngược lại, tiền tài có được bằng những thủ đoạn bất chính, Phật pháp gọi là “Bất tịnh chi tài”, thật ra trong số mạng vẫn có, song tất cả cách làm đã dụng tâm sai, xem có oan uổng không! Dùng tâm thanh tịnh, tự nhiên nó cũng sẽ đến, cần chi khởi lên những ác niệm mà tạo nên những ác nghiệp đó.

Nghĩ đủ cách để giữ gìn của cải, tiền bạc, lo sợ nó sẽ mất đi. Nhưng không biết rằng dù lao tâm khổ thân đến tột cùng cũng không chắc giữ lại được. “Như thị chí cánh, vô nhất tùy giả”. “Chí cánh” tức là lao tâm, thân khổ đến khi già chết cũng không mang theo được một thứ gì. Đúng là “Vạn thứ không mang đi, chỉ có nghiệp theo mình”. Một đời làm nhiều nghiệp ác, đều mang theo rồi. Ngoài nghiệp ác ra, một thứ cũng không mang đi được. “Thiện ác họa phước, truy mệnh sở sanh”. Kết quả đạt được là như thế đấy.

Tu thiện, mang đi thiện nghiệp, tạo ác, mang theo ác nghiệp. Ác, tương lai cảm ứng nhận được quả tai họa. Thiện, kết quả tương lai là phước đức. Từ đó có thể biết “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa phước không cửa, do người tự chọn).

Nhân của khỏe mạnh trường thọ là “Vô úy bố thí”, phóng sanh cùng với không sát sanh đều thuộc vô úy bố thí. Giúp cho chúng sanh mãi mãi rời xa sợ hãi, buồn lo, khổ nạn, đó gọi là vô úy bố thí. Chúng ta giúp đỡ người khác thoát khỏi khổ nạn, được sự bình an, loại bố thí này sẽ được quả báo khỏe mạnh trường thọ.

Có tiền không chịu bố thí, sẽ gặp được quả báo của nghèo khó. Lận pháp (bủn xỉn về pháp), thế gian pháp hay Phật pháp mà mình biết được, không chịu truyền thụ cho kẻ khác, không chịu tu pháp bố thí, sẽ bị quả báo ngu si. Ngược lại với vô úy thí, tức là uy hiếp người khác, làm cho kẻ khác thân tâm bất an, quả báo sẽ là nhiều bệnh tật, tuổi thọ ngắn ngủi.

Thường giúp đỡ người bệnh thì mình không sinh bệnh, thường giúp đỡ người già tự mình sẽ không già yếu. Tuổi tác tuy lớn nhưng thể lực giống như người trẻ tuổi. Quá khứ có không ít người gặp qua lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở Đai Trung. Lão cư sĩ 95 tuổi mà không cần người khác hầu hạ, đi bộ cũng không cần chống gậy. Ông khỏe mạnh trường thọ là quả báo của vô úy thí. Ông dùng Phật pháp, y thuật giúp đỡ nhiều người bệnh tật già yếu, do đó bản thân ông được quả báo thù thắng như vậy. Tuyệt đối không thể chê bai, bỏ rơi người bệnh già, người già cả, bệnh nhân, vì tương lai mình bị bệnh, tuổi đã già, người trẻ tuổi sẽ chê bai bỏ rơi quý vị. Quả báolà như thế. Trồng nhân gì thì được quả báo đó. Nhân duyên quả báo, một tí cũng không sai.

Vui vẻ, trường thọ, sức khỏe từ đâu đến? Từ lòng thanh tịnh mà đến. Tâm lý khỏe mạnh, thân thể tự nhiên được khỏe mạnh. Do đó, tâm địa thanh tịnh, trăm bệnh không sanh. Không những không bị bệnh, tôi thường nói: Không chết (bất tử) là thật đấy. Quý vị hỏi tôi: “Tôi có chết không?” Tôi sẽ nói với quý vị: “Tôi quyết định không chết”. Đây là chuyện thật. Không sanh bệnh, không phải chết, là sống mà vãng sanh tịnh độ theo A Di Đà Phật… Dùng phương pháp gì tu tâm thanh tịnh? Dùng phương pháp niệm kinh Vô Lượng Thọ, dùng phương pháp niệm A Di Đà Phật. Đây không phải là mê tín.

Phật thường răn dạy chúng ta không nên có lòng làm tổn hại đối với bất kỳ một chúng sịnh nào… Đây chính là nhà Phật thường nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Khi chúng sanh thấy quả báo hiện tiền thì lúc ấy mới sợ. Lúc này sợ hãi cũng không sao tránh khỏi ác báo. Đã tạo nhân, ắt thọ quả báo. Bồ Tát biết rằng tạo nhân ắt có hậu quả, do đó rất cẩn thận chú ý khi khởi động niệm, không tổn hại người, càng không tổn hại đến đoàn thể. Quả báo gặt được là thanh tịnh, viên mãn.

Trong kinh thường nói: “Bồ Tát sợ nhân”. Bồ Tát hiểu rõ sự thật chân tướng , dù phải chịu khốn khổ rất lớn cũng không oán trách, trách người. Các Ngài biết tự chịu quả báo. Ác báo đã thọ xong, thiện nhân chín muồi thì thiện quả hiện ra. Đây mới là người thật sự có trí tuệ, hiểu rõ chân tướng của sự thật.

“Chuyển tương khắc tặc” là nói sự xoay vòng của quả báo, tuần hoàn của sự giết hại. Đời này bạn giết hại chúng, đời sau chúng giết hại bạn. Quả báo là tuần hoàn, không chiếm được lợi cũng không bị thiệt thòi. Oan oan tương báo mới là bộ mặt thật của lục đạo luân hồi.

“Tương tòng cộng sanh, canh tương báo thưởng”. Nếu chúng ta nghĩ thấu được hai câu này rồi thì cho dù ngày nay trên thế gian này có người khác phỉ báng, sỉ nhục, lăng nhục, tâm của chúng ta sẽ bình thản. Vì sao họ không phỉ báng, không hà hiếp người khác mà chỉ hiếp đáp mình? Trong quá khứ ta đã hà hiếp họ, phỉ báng họ. Ngày nay họ một trả một với ta, nợ này mà trả xong, về sau thiên hạ sẽ thái bình, không còn gì nữa rồi. Do đó, cần biết triệt tiêu tất cả nợ đối với oan gia kẻ thù, trong lòng sẽ thanh thản tự tại.

Tất cả chúng sanh ở thế gian này không thể không có oan gia, không thể không có trái chủ. Vì từ vô thỉ kiếp của quá khứ chúng ta ở trong lục đạo luân hồi, không biết đã kết oán thù với bao nhiêu chúng sanh, cũng không biết đã nợ bao nhiêu của chúng sanh. Mình nợ người ta nhiều, người khác nợ ta ít. Khi những oan gia trái chủ gặp nhân duyên hội tụ, tuy không quen biết cũng phải đòi nợ, trả nợ. Việc này Phật pháp nói thẳng ra thì chúng ta rất dễ nhận biết. Trong đời này của chúng ta, rất nhiều chuyện không như ý muốn, đặc biệt là sự không như ý của hoàn cảnh người và việc. Phật dạy chúng ta lúc nào cũng phải nhường nhịn. Nhường nhịn là trả nợ, là giải oán. Đừng để trong lòng, đừng so đo.

Tuy đời này bị mắc lừa, chịu thiệt thòi, mình phải biết chắc là trong kiếp quá khứ ta đã hà hiếp họ, chướng ngại cản trở họ nên hôm nay họ lại chướng ngại ta. Báo ứng một thì trả một, sổ kết toán đến đây, tất cả triệt tiêu, tâm khai, ý mở. Sổ tính xong, nợ đã không còn. Nếu không dứt điểm, còn ôm hận trong lòng thì tương lai lại đi trả đũa. Đời đời kiếp kiếp báo qua báo lại, mãi mãi không xong, không hết. Hơn nữa mỗi một lần trả đũa đều nghiêm trọng hơn lần trước, rất là khủng khiếp, đáng sợ.

Nhân quả báo ứng, tơ hào không sai. Đồ đạc và tiền bạc của chúng ta bị người khác ăn cắp, sao họ không trộm của người khác mà chỉ lấy cắp của ta? Có lẽ kiếp trước mình trộm của họ, bây giờ họ lấy cắp về. Sổ này xem như đã tính xong, không còn việc gì nữa… Do đó, dù người khác hãm hại chúng ta, bất kể thủ đoạn tàn nhẫn cỡ nào, thậm chí lấy đi mạng sống của chúng ta thì cũng đừng so đo. Vì sao? Sổ sách (nợ) đến đây đã hết, cùng nhau kết nối cái thiện duyên, kiếp sau thành Phật còn có thể độ họ. Kết thiện duyên, không so đo, không ép chúng sanh phải phiền não, đó là tu hành.

Phải biết tướng của chúng sanh trong sáu đường, chẳng qua là oan oan tương báo. Thiếu tiền trả tiền, nợ mạng đền mạng, tuyệt đối không có lý để trốn thoát. Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, còn phải thị hiện “Mã mạch chi báo”. Trong truyện ký của Phật Thích Ca Mâu Ni có ghi lại: Cầm bình bát xin không được đồ ăn, người ta dùng thức ăn cho ngựa đến cúng dường Ngài. “Tại Trần tuyệt lương” của Khổng Tử, còn có lúc đoạn việc nấu nướng, không có cơm để ăn. Đại thánh nhân cũng không thể vì một đời tu thiện tích đức mà không có quả báo ác; quả báo là nhân của kiếp trước đã gieo trồng.

Phật trong kinh nói rất rõ ràng: Duyên cha con đến như thế nào? “Báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ”, giữa người với người, người với tất cả chúng sanh, nói thật không ngoài bốn thứ nhân duyên đó. Duyên kết nối nhiều đời nhiều kiếp, chỉ là nặng nhẹ, nhiều ít mà thôi. Do đó, khi Bồ Tát khởi tâm động niệm đều rất cẩn thận, rất chú ý. Vì các Ngài hiểu được sự thật của chân tướng, quyết không khởi một ác niệm, quyết không tạo một việc ác. Vì các Ngài biết rằng, một ác niệm, một việc lầm lỗi, tương lai nhất định sẽ mang lại điều không như ý trong đời sống. Các Ngài muốn đời sống của mình tự tại, không chướng ngại, chỉ có không tạo ác nghiệp thì mới có thể đạt được.

Quan hệ giữa người với người là quan hệ của sự báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ… Bốn thứ quan hệ này là biến tướng của những nghiệp quả do kiếp trước tự mình đã làm. Hiểu rõ sự thật chân tướng, mới biết thì ra người sống trên đời không có chịu thiệt thòi, cũng không ai chiếm được lợi. Tôi bị người ta lừa dối, vẫn vui vẻ cho xong một món nợ, có lẽ trong đời quá khứ tôi đã lừa gạt họ, bây giờ bị họ lừa trở lại, vậy cũng tốt vì nợ này đã trả xong. Bị ăn trộm cũng là kiếp quá khứ mình đã trộm của họ, bây giờ việc này xem như sòng phẳng. Nhân quả vốn tuần hoàn không ngừng, hiểu được thật tướng thì tâm khai, ý mở.

Phải nuôi dạy con cháu bằng cách giáo dục chúng cho tốt, nhưng đừng để lại tiền bạc vật chất. Phải vì chúng mà tu phước, tích đức thì chúng mới thực sự được thọ dụng. Để tiền bạc vật chất cho chúng, chúng cho rằng tiền tài có được quá dễ dàng, nên dễ sa đọa và tạo nghiệp.

Thường bố thí, ban phát ân huệ cho người khác, con cháu đến trả ơn sẽ rất nhiều. Đối với người khác không một tí ân huệ, mỗi một niệm đều tự tư tự lợi thì sự báo ơn đâu có đến. Đều là đến để báo oán, đòi nợ. Uổng phí bao nhiêu tâm huyết để giáo dưỡng chúng, đến sau cùng chỉ làm quý vị thất vọng, cũng tức là “phụ ơn bội nghĩa, không có báo đền”.

Phật nói ba đời không có vọng ngữ, thì lưỡi có thể đưa ra liếm đến chóp mũi. Phật tại nhân địa, đời đời kiếp kiếp không có vọng ngữ, do đó khi Phật đưa lưỡi ra thì có thể che hết khuôn mặt. Nếu không chịu tu nhân thì sao lại có quả báo?

Trích “Niệm Phật thành Phật”

Pháp sư Tịnh Không