Câu chuyện Tôn giả A Nan bạch Phật cho người nữ xuất gia
“Thời Đức Phật tại thế, các tôn giáo, đạo giáo ở Ấn Độ đều không cho người nữ đi tu. Nhưng khi Đức Phật ra đời, 5 năm sau khi thành đạo, Ngài là người đầu tiên cho thành lập Ni đoàn. Người nữ đã được xuất gia vào trong giáo đoàn”.
Trong quan niệm thời bấy giờ, nữ giới có địa vị thấp kém và không được tham gia việc tu tập. Việc thành lập Ni đoàn khi ấy là rất phi thường vì nó chấp nhận cho người nữ được tiếp thu một bản chất cao quý, một khả năng thấm nhuần trí tuệ thâm sâu ngang hàng với nam giới.
Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu Đức Phật đã chấp thuận việc nữ giới xuất gia trở thành Tỳ-kheo. Bởi với trí tuệ Thế Gian Giải, Đức Phật nhận thấy người nữ xuất gia có những khó khăn. Nhưng phước lành thay, Tôn giả A Nan đã từ bi thỉnh cầu Đức Thế Tôn cho người nữ xuất gia và được Ngài chấp thuận.
Tích truyện Ngài A Nan xin Phật độ người nữ xuất gia
Tôn giả A Nan thuộc dòng dõi hoàng tộc, là em họ của Đức Phật. Từ nhỏ, Ngài đã có nhiều tướng tốt và một trí nhớ siêu phàm. Đến 25 tuổi, Ngài xin theo Phật xuất gia và được chọn làm thị giả, rất gần gũi với Đức Thế Tôn.
Lệnh bà Kiều Đàm Di (Gotamī) là em gái của hoàng hậu Ma Da (Mahà Mayà) và là di mẫu của Đức Phật. Sau khi các vương tử của dòng họ Thích Ca đã quy y theo Phật và xuất gia, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) băng hà; bà Kiều Đàm Di lúc này túc phúc thiện căn đầy đủ, bèn đến xin Đức Phật cho phép được ở trong Tăng đoàn xuất gia như Pháp. Bà đến cầu thỉnh Đức Phật đôi ba phen nhưng Ngài không chấp thuận. Tuy nhiên, lệnh bà chưa bỏ cuộc, tìm gặp Tôn giả A Nan và Tôn giả Ca Lưu Đà Di để hỏi về oai nghi, cách thức mặc y, mang bát, trì bình khất thực; cách đi đứng, nói năng, ngủ nghỉ của một vị Tỳ-kheo. Tiếp đó, bà tập hợp năm trăm người nữ dòng họ Thích có cùng ý nguyện, cạo tóc, đi chân đất rời thành Ca Tỳ La Vệ đuổi theo đến thành Tỳ Xá Ly (Vesāli). Các vị phu nhân, tiểu thư này chỉ quen ở trong cung, lên ngựa xuống xe. Giờ đây phải đi hàng trăm cây số, đến những xóm làng để xin ăn, trưa ngủ dưới gốc cây, đêm ngủ trong rừng vắng, những đôi chân nõn nà đều sưng phù chảy máu, quần áo bụi bặm lấm lem.
– Nữ giới xuất gia, sống không gia đình trong pháp và luật của đức Thế Tôn, có khả năng chứng đắc quả vị cao thượng, thù thắng không, bạch đức Thế Tôn?
– Này A-nan, có thể được!
Đại đức A Nan liền đỉnh lễ lần thứ ba:
– Bởi nữ giới có khả năng chứng đạt đạo quả cao nhất, và vì lệnh bà là người đã có rất nhiều công lao nuôi dưỡng Đức Thế Tôn từ tấm bé, yêu thương đức Thế Tôn còn hơn con đẻ của mình; vậy nên đức Thế Tôn hãy cho phép lệnh bà và quý mệnh phụ phu nhân, các công nương Sakya được xuất gia sống theo pháp và luật này!
Đức Phật biết là đã đúng thời, mời thỉnh hai vị đại đệ tử và các vị đại trưởng lão đến hội ý. Họ thảo luận bàn bạc khá lâu…Đức Phật trầm ngâm một lúc rồi nói:
Sau khi hội ý với các vị trưởng lão, Đức Phật đồng ý cho nữ giới xuất gia với điều kiện họ phải thực hiện Tám điều cung kính về Pháp, gọi là Bát kính Pháp. Bên cạnh đó, Đức Phật cũng đưa ra những giới luật cho người Tỳ-kheo Ni. Đây là cánh cửa mở đầu cho những người nữ được bước vào giáo đoàn của Đức Thế Tôn và chính Tôn giả A Nan là người tích cực hỗ trợ.
Sự ủng hộ của Tôn giả A Nan đã mang lại niềm hạnh phúc cho nữ giới ngày nay
Để giáo hội Tỳ-kheo Ni ra đời và đạt được những thành tựu như ngày nay, ân đức của Tôn giả A Nan quả thật không thể nghĩ bàn. Đức Phật cũng đã tạo nên một cuộc cách mạng trong tư tưởng của đại chúng bằng cách công khai tuyên bố rằng, người nữ có thể đạt đến mức tiến bộ tuyệt đỉnh, thành tựu trí tuệ thâm sâu dẫn tới Niết bàn. Đại đức Thích Trúc Thái Minh cũng chia sẻ: “Đức Phật đã khẳng định người nữ cũng có thể thành tựu đạo quả như người nam. Nếu thực tập đầy đủ chính Pháp thì nữ giới cũng thành tựu được các tầng Thánh quả như người nam, không kém”.
Đó quả thực là những khẳng định mang lại niềm hạnh phúc to lớn cho nữ giới. Bởi dù là ai cũng cần nương tựa giáo Pháp của Đức Thế Tôn để vơi bớt khổ đau, đạt đến Niết Bàn an vui.
Hạnh Duyên