Tìm Phật – thấy Phật – làm theo Phật (II)
Vì vậy, chúng ta không tìm Phật trong tâm, nhưng tìm Phật ở trong kinh điển. Điển hình người đầu tiên tìm thấy Phật trong kinh là Ngài Trí Giả. Ngài là Tổ khai sáng Thiên Thai tông, chủ yếu là Ngài thấy Phật trong kinh Pháp Hoa.
Người đọc tụng kinh xem kinh nói gì, từ chỗ đó tương ưng với niềm tin của chúng ta khao khát hiểu Phật, thấy Phật thì Phật này hiện ra.
Thể hiện lý này, Ngài Trí Giả tìm Phật trong kinh Pháp Hoa và thấy được hội Linh Sơn vẫn còn, thấy Phật Thích Ca đang thuyết pháp và có vô số Bồ tát, Thiên long Bát bộ hiện ra. Vì vậy, Ngài khẳng định mình đã thấy Phật.
Nói cách khác, chúng ta tìm Phật trong kinh điển, nhưng tâm chúng ta bừng sáng, thì chúng ta thấy Phật. Chúng ta tu thường có cảm giác này trong bất giác. Trên bước đường tu, trong lúc bất giác, tức vô tâm, tôi đang đứng yên và tâm cũng đứng yên thì vụt có cảnh giới khác hiện ra. Vì vậy, có lúc tôi nhìn trời xanh, nhưng vì có niềm khao khát trong lòng muốn thấy Phật, cho nên thấy Phật hiện ra trên bầu trời. Trước kia, tôi nghe nói Phật hiện ra trong không trung, nhưng không tin; đến khi có trạng thái bất giác như vậy, tôi thấy đó là sự thật.
Chắc chắn người tuyệt mạng trên biển bị chìm tàu, họ sợ quá đến mức độ thất thần; nhưng nhờ lòng họ có căn lành nên khi rơi vào trạng thái bất giác đó, thì thấy Phật hiện ra trên biển. Sau đó, họ không biết gì, tưởng là chết, nhưng cuối cùng sáng hôm sau thấy nằm trên bãi biển.
Người tu không có niềm tin và không quyết tâm tìm Phật, e rằng khó vào đạo, dù có văn bằng tiến sĩ cũng vô ích. Quan trọng là thấy được Phật thì cuộc đời ta phải thay đổi tốt đẹp. Vì vậy, tuy vô tâm, vô niệm, nhưng kết quả trên bước đường tu chúng ta có nhiều điều kỳ diệu là vô cầu nhưng toại ý, tức đối với mọi việc xảy đến, chúng ta không buồn phiền, khổ đau; đó là thực chất của người tu.
Tôi khuyên quý vị phải đi tìm Phật, tìm trong chùa để gặp các bậc cao tăng khai ngộ và tìm trong kinh để được Phật Thích Ca giới thiệu. Tôi đã từng làm như vậy và đã thấy được Phật. Còn nếu chúng ta vào chùa chỉ gặp bạn đồng hành, hay giáo thọ sư mà mình không bằng lòng, thì tôi khuyên quý vị nên bỏ đi; đừng để phiền não trần lao nghiệp chướng nổi dậy nữa, vì cuộc đời này đã có quá nhiều đau khổ rồi, cho nên phải cố gắng đi tìm thiện tri thức.
Trên bước đường tu, tôi được may mắn lúc mới tu chưa biết chữ Nho, đến chùa Hoằng Khai được Hòa thượng Đạt Vương tặng cho bộ kinh Pháp Hoa chữ Hán, tôi không biết đọc, vì lúc đó mới là Sa di. Nhưng đi đâu, hành lý của tôi cũng chỉ có bộ kinh này là thiện tri thức. Việc khai ngộ của Hòa thượng rất lạ lùng, thông thường cho kinh cho người có học, nhưng Ngài lại cho một chú tiểu nhỏ làm sao đọc được. Theo tôi, đây là Phật đã khiến vị sứ giả này mang kinh Pháp Hoa cho tôi, vì đời trước tôi tu Pháp Hoa rồi. Bộ kinh này là hành trang theo tôi suốt cuộc đời tu của mình, cho nên khi xây dựng chùa Huê Nghiêm 2, tôi thờ bộ kinh này trên tháp chùa.
Ở Huê Nghiêm, tôi thấy Hòa thượng Huê Nghiêm khuya nào cũng tụng kinh Pháp Hoa và trì ngũ hối. Từ những sự kiện như vậy, tôi có ý nghĩ sâu sắc về sự khai ngộ của thiện tri thức. Thật vậy, có kinh nhưng không có thầy chỉ dạy, chúng ta cũng khó nhận ra lý của kinh.
Phải nhờ thầy khai ngộ mới được. Điển hình là Ngài Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa thấy hội Linh Sơn của Phật Thích Ca vẫn hiện hữu là nhờ Ngài Huệ Tư đại Thiền sư khai ngộ, vì vị này đã chứng được nhứt tâm tam quán. Quý vị nên suy nghĩ về nhứt tâm tam quán. Nếu thiện tri thức chưa đắc được nhứt tâm tam quán là chưa đắc định thì coi chừng họ chỉ là người thường, là phàm tăng mà chúng ta gặp rất nhiều. Còn gặp được thiện tri thức đắc định, thì mỗi vị có một loại định khác nhau.
Đại Thiền sư Huệ Tư được định là nhứt tâm. Trên bước đường tu, chúng ta thấy có người tâm tập trung được, có người không thể tập trung. Người không tập trung thì ngồi thiền, tụng kinh, hay nghe giảng mà đầu óc nghĩ đủ thứ, thì không bao giờ đắc đạo. Khi đạt đến nhứt tâm là tập trung được tư tưởng cao độ sẽ có sức mạnh tâm linh ảnh hưởng đến người khác cũng được nhứt tâm theo. Thiền gọi đó là truyền tâm.
Thầy và trò cùng nhứt tâm giống như hai thanh đồng truyền điện cho nhau được. Ngài Huệ Tư đắc định nhứt tâm, cho nên tâm tập trung mạnh ảnh hưởng ngay cho Trí Giả đại sư; nhờ vậy, Ngài Trí Giả đọc kinh Pháp Hoa mới hiểu được nghĩa lý của kinh Pháp Hoa và ngộ hai chữ phương tiện. Như vậy, khi nhận được sự truyền tâm của thầy thì phải ngộ bất cứ điểm nào đó trong kinh.
Từ ngộ được hai chữ phương tiện, Ngài Trí Giả mới thấy hội Linh Sơn chưa tan. Bấy giờ, Ngài Huệ Tư dạy rằng như vậy là ông đã ngộ rồi, không cần ở đây nữa, mà nên đi. Thiền sư diễn tả ý này là: “Khô mộc long ngâm, bằng quân hội đạo khứ”, nghĩa là ai ngộ được thì đi, mỗi người một phương, còn chưa ngộ thì ở lại. Thực tế bằng mắt phàm, chúng hội thấy Ngài Huệ Tư đuổi Ngài Trí Giả đi, nhưng sự thật không phải như vậy. Cả hai Ngài cùng ngộ, cho nên Ngài Trí Giả hiểu được ý của thầy mình, Ngài ra đi trong vui vẻ; không phải chỉ nghĩ theo phàm phu là ở đây có công tu, làm được việc thì sẽ kế thế thầy để làm trụ trì.
Ngài Trí Giả ngộ “Phương tiện”, nên xuống đất Kim Lăng, Ngài giảng kinh Pháp Hoa trong suốt 3 tháng mà chỉ giảng một chữ Diệu của năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Và trong suốt 8 năm, Ngài khai mở cánh cửa phương tiện qua cách triển khai yếu nghĩa của năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa kinh. Có thể nhận thấy rõ rằng Ngài Trí Giả ngộ hai chữ phương tiện mà trở thành vạn năng. Thật vậy, ngày nào Ngài cũng thăng tòa thuyết giảng Diệu Pháp Liên Hoa mà đại chúng nghe không biết chán, thậm chí cho đến vua chúa cũng bãi triều để đi chùa nghe giảng kinh Pháp Hoa. Đó chính là sức mạnh tâm linh của người ngộ đạo là ngộ Phật tri kiến, hay ngộ thấy Phật.
Xưa kia, Đức Phật Thích Ca cũng nhờ ngộ như vậy, mà Ngài chuyển thân tứ đại thành vô lậu Pháp thân. Vì vậy, thành Phật rồi, cũng thân đó, mà người trông thấy sanh kính trọng; khác với trước khi Phật ngộ, năm anh em Kiều Trần Như thấy Phật uống bát sữa thì họ ghét bỏ, nhưng Phật ngộ rồi thì họ sụp lạy Phật.
Chúng ta tu hành cũng vậy, khi chưa ngộ thì gian nan lắm. Nhưng ngộ được tri kiến Phật, ta không còn nhu cầu gì, mà tất cả Phật sự tự nhiên tới và thành tựu tốt đẹp. Còn cần cầu sẽ rơi vô tham vọng, chẳng được gì, chỉ toàn là phiền não.
Trên bước đường tu, chúng ta tìm Phật trong chùa, trong kinh, sẽ gặp được thiện tri thức chỉ dạy. Nếu tu Pháp Hoa, gặp được thiện tri thức lớn nhất là Phổ Hiền Bồ tát sẽ tới với chúng ta. Kinh Pháp Hoa nói rõ điều này, khi có Phổ Hiền Bồ tát xuất hiện thì người chống đối sẽ trở thành người hộ pháp. Nhận chân yếu nghĩa này, hành giả Pháp Hoa không sợ người chống đối, nhưng sợ mình không ngộ đạo. Nếu ngộ, thì Phổ Hiền đến giúp đỡ. Nếu gặp ác ma, Phổ Hiền dùng sức thần thông hộ trì diệu pháp, nghĩa là Ngài biến ác ma thành pháp lữ.
Ngày xưa, khi chùa Ấn Quang chưa được xây dựng kiên cố, còn ở trên nghĩa địa. Ông Cầm là Trưởng ty Vệ sinh đã ra lệnh hốt chùa; nhưng khi cảnh sát đến dẹp chùa, tự nhiên họ không dám làm vậy. Ông này mới nổi giận đích thân đi dẹp chùa. Ông đến chùa chỉ nhìn thấy có Hòa thượng Trí Hữu, không thấy ai cả, nhưng sao ông cũng cảm thấy sợ.
Tôi nói đây là lực của Phổ Hiền Bồ tát. Vì Hòa thượng Trí Hữu tụng kinh Pháp Hoa và có niềm tin rất mãnh liệt với bộ kinh này, khó ai có được niềm tin như Ngài. Khi Ngài tụng xong một bộ kinh Pháp Hoa thì đốt một liều hương trên đầu, như vậy mà Ngài đốt liều hương khắp cả đầu Ngài rồi, Ngài lại đốt trên hai cánh tay và cuối cùng Ngài đốt đứt một ngón tay, mà chẳng sợ.
Vì vậy, khi ông Cầm đến dẹp chùa, Hòa thượng vẫn bình tĩnh như không có việc gì xảy ra. Trái lại, ông Cầm lại sợ và sau này ông phát nguyện trở thành Trưởng ban Bảo trợ Phật học đường Nam Việt tại chùa Ấn Quang. Tôi nghe Hòa thượng kể lại việc này cũng thấy ứng nghiệm với đại nguyện của Phổ Hiền Bồ tát là chuyển hóa ác ma trở thành pháp lữ.
Nếu chúng ta tụng kinh Pháp Hoa mà không hiểu nghĩa lý sâu xa thì Phổ Hiền Bồ tát khuyên chúng ta nên nhập thất trong 21 ngày. Nếu may mắn, thấy được Phổ Hiền xuất hiện, mọi việc khó khăn sẽ tự động được hóa giải. Và quý vị sẽ có tâm bình ổn, có được hiểu biết kỳ diệu gọi là vô ngại biện tài, nghĩa là nếu ai hỏi điều gì, mình cũng biết thông suốt.
HT.Thích Trí Quảng