Học Phật từ trong thai tạng
Đức Phật xem thể tánh của mình đồng đẳng như bao chúng sinh. Phật không cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng kinh điển.
Thiền sư Hắc Thủy Thừa Cảnh bên Trung Hoa có hai câu thơ tuyệt cú: “Rổng rinh vô hạn trùm trời đất/ Ẩn hiện sương mù nắng Phật lên” (Quách nhiên thản đấng châu sa giới/ Trước vụ tiềm dung Phật nhật huy). Thi nhãn nằm ở “nắng Phật”; ý của ngài: “Đất lớn che không hết, mặt trời ấy lồ lộ khắp mọi nơi”. Phật pháp vô biên trùm khắp các cõi, không gì không bao hàm song không phải khẳng định sự cao vời mà thấm nhuần ánh sáng đến mọi ngách tối thế gian. Đạo Phật chính là phụng sự. Thế nên bảo đạo Phật chối bỏ, xa lánh, phủ nhận nhân gian là sai lạc! Lời đúc kết vàng ròng của giáo sư lỗi lạc Phương Đông Mỹ: “Học Phật là sự thọ hưởng tối cao của đời người”.
Đạo Phật, và cả khoa học ngày nay cũng thừa nhận: con người được cấu thành từ vật chất (thân xác, sự dung hợp của tứ đại) và phi vật chất (tâm, ý/thức…). Một hành động của thân bao giờ cũng xuất phát từ tâm (ý) rồi mới dẫn lên trí, trí sẽ phát lệnh chân tay miệng tạo tác. Một câu trong Đại học: “Bậc quân tử nhất định phải khiến cho ý niệm của bản thân mình được chân thành”. Con người, nhất là những người đắc quả bây giờ là chu trình tiếp nối các đời trước, mọi “dữ liệu” được tồn lưu ở thức thứ tám alaya. Và, chỉ tính trong hiền kiếp này, trước Phật đã có 3 vị Phật xuất thế… Sau Thích Ca Mâu Ni Phật, theo kinh Thủ Lăng Nghiêm: hiện nay tuổi thọ của loài người ở trong kiếp giảm, khi giảm xuống còn 10 năm rồi lên đến 84000 tuổi, thì Phật Di Lặc sẽ xuất hiện tiếp tục khẳng định và hoằng truyền Kinh điển.
Đạo Phật nhằm tu Thân. Tu để sống tốt hơn trong kiếp này và cứu cánh hướng tới Niết bàn. Đạo Phật là con đường giác ngộ đưa chúng sanh ra khỏi lục đạo, vĩnh viễn thoát khổ. Hễ chừng nào còn luân hồi, nguy cơ vào ba đường ác thường nhiều hơn ba nẻo thiện; phần Phật thuyết về đạo hạnh làm người có thể gọi là Triết lý Nhân sinh. Con người trang bị các triết lý khác rồi mới quay trở lại trang bị triết lý nhân sinh là vòng vèo, nhiều khi lạc mất đường về rồi biết đâu chẳng còn thời gian? Phật nói “Biển khổ mênh mông quay đầu là bến”; đời biến thành câu thông dụng “Quay đầu là bờ” để chỉ người sai lầm, sớm tỉnh ngộ viết lại cuộc đời.
Ở đời thấy người tu rời đại gia đình, rời cha mẹ lên chùa hay nương tịnh thất riêng cho là… bất hiếu. Người tu họ hiểu nếu không thành tựu nghiệp đạo, sẽ không thể giúp ai có thân người ở kiếp sau nói chi về nước Phật. Phần lớn cha mẹ đều để lại gia sản (khổng lồ), nhưng khi qua cõi Thân trung ấm (bardo) chịu nghiệp quả từ việc kiếm số tiền đó cho con, mong con trích ra một phần trăm làm thiện hồi hướng cho mình – là điều khá hoang tưởng. Bởi, con đâu có học Phật, đâu biết cha mẹ cần con tạo công đức chứ không phải là đồ hàng mã! Đạo Nho được đề cao xưa nay cũng nhờ một chữ Hiếu to đùng treo nơi trịnh trọng mỗi gia thất. Tinh thần hiếu đễ ấy nếu soi vào Đạo Phật khiêm tốn hơn nhiều. Ca dao từng đúc kết: “Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu”. Chẳng những thờ, kính, đạo Phật còn có hẳn mùa Vu lan báo hiếu. Thờ, kính mới chỉ ở đời này, mà chưa chắc đã trọn. Đạo Phật còn thôi thúc mỗi người tu tinh tấn; nếu mình chưa có nổi tâm cầu giải thoát thì mong chi báo hiếu mẹ cha nơi cõi khác. Hiếu trần ai mới là hiếu ở cấp độ thấp. Hiếu trần ai với thứ vật chất thô lậu thảy gần như vô nghĩa ở bên kia núi. Nhiều người bây giờ lớn lên trôi tuột theo dòng đời kiếm tiền dung dưỡng thân; tưởng về xây cho cha mẹ ngôi nhà lớn, thuê người cung phụng hàng ngày của ngon vật lạ – là hiếu. Thử nhìn nhận, một người mang danh đạo đức song tới đâu cũng bị người ta chửi mắng (tất nhiên là chửi mắng có lý do), ấy chẳng phải Bất Hiếu? Thậm chí còn bất nghĩa với tổ tông dòng tộc. Ngược lại, một người sống chân thành, luôn giúp đỡ động viên mọi người không phân biệt thân sơ…, chẳng phải cha mẹ nở mày nở mặt, chẳng phải là Đại Hiếu. Mục Kiền Liên – người đệ tử đắc quả, thần thông bậc nhất của Phật nhờ nương vào mười phương chư tăng nhất tâm chú nguyện mới cứu mẹ thoát cảnh bưng chậu máu đứng trên bàn chông dưới địa ngục. Nên mới có câu niệm: “Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ tát ma ha tát”.
Thời đại bây giờ để sống tốt phải vùng vẫy, phải thiệt thòi, khổ và khiêm ái. Ấy là tu thân. “Tự thiên tử dĩ chí ư thứ nhân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bổn”. (Từ vua đến dân đều phải lấy việc tu thân làm gốc). Phật giảng: “Thắng một vạn quân không bằng chiến thắng bản thân”. Ai ai đều tự tu để cứu mình. Em trai của Phật là A Nan cũng như bao đồ môn khác, việc tu tập phải tự nương ở chính mình. Trên dòng cuồng lưu của nghiệp thức, nếu con người không biết đời thọ khổ, không tin tâm vô thường, pháp vô ngã, sẽ bị cuốn trôi đến tận cuối nguồn dâu bể. Cuộc đời – dòng chảy không ngừng của nghiệp thức ấy hòa vào máu huyết căn mạng. Đức Phật nói: “Dòng nước sông Hằng phút trước và phút sau đã khác nhau. Ta của ngày hôm qua đã khác với ta của ngày hôm nay”; thật gần với một câu được xếp hàng biện chứng kinh điển của Héraclitos: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Tu thân là bơi ngược dòng nghiệp thức, chỉ cần lơ đãng buông lơi tỉnh thức, phước sẽ sụt giảm. Ngạn ngữ Pháp: “Đừng ngủ quên trên chiến thắng”. Trong giấc thiền có từ “hôn trầm”; cần phải “mở to mắt ra”. Đạt được chút đạo quả nhỏ xíu đã tưởng mình bậc giác ngộ. Hư Vân thiền sư từng căn dặn lúc tham thiền: “Ngay cả thấy Phật Thích Ca đến dùng tay xoa đầu thọ ký, quý vị cũng chớ để ý đến, hay khởi tâm vui mừng”. “Không khởi tâm thánh, tức gọi là cảnh giới lành” (Kinh Lăng Nghiêm).
Nhân sinh triết học của Lão Tử khuyên người nên “đem thân vì thiên hạ”. Người tu chân chính trong cõi Phật không ai tu cho mình cả. Ước nguyện của họ chính là Đắc Đạo – Tái Sinh – Giảng Pháp; vòng tròn ấy liên tục từ kiếp này đến kiếp khác, như Đạt Lai Lạt Ma với 14 lần tái sinh và thật nhiều Bồ tát hóa hiện phàm nhân âm thầm giáo hóa. Phật Thích Ca thành Phật từ vô thỉ. Từ Bồ tát lên Phật không xa, song họ vẫn muốn là Bồ tát để trở lại cõi nhân hóa độ. Phật Địa Tạng giương cao tấm bảng: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật” (Địa ngục chưa trống, tôi thề không thành Phật). Hiểu thô nhất là chúng sanh chưa hết đau khổ, Bồ tát chưa hưởng niềm vui.
Để thấy người tu nếu chưa giúp được gì ít ra cũng không đụng chạm đến quyền lợi của ai, không phiền nhiễu. Phật dặn các Thiện nam tử trong lúc giảng Kinh Vô Tự Bảo Khiếp: “Điều gì mà Bồ tát không muốn đến với mình chớ nên bảo người khác làm”. Khổng Tử: “Việc gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác” (Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhơn). Những điều mình không muốn ở đây là sự chán ghét, khó chịu hiển nhiên và có tính phổ quát. Một bữa tiệc thịnh soạn thì khoai, sắn, cháo trắng là những món mình và người khác không ưa. Gần hơn, trong bữa cơm có vài món (dẫu ngon) song đã ngán, ta mới nảy ý bưng qua cho hàng xóm nghèo để lấy lòng. Hành động này tạo nghiệp. Miếng ăn ấy đến chiều sẽ phải đổ cho vật; còn không cho vật, nhà giàu sẽ đổ vào hố rác – vô tình gây nghiệp… Lý ra nhà giàu phải cảm ơn người nghèo thay vì tự đắc mình người tốt. Bởi nhờ có nhà nghèo, nhà giàu mới khởi được lòng thương hại, mới phát tâm bố thí, nhờ đó nhà giàu tăng phước, góp phần tăng thọ mạng và tẩy trừ chướng nạn. Phật dặn: “Các vị nên biết điều không muốn đến với mình, chớ nên cho người khác”. Là con của Phật sao có thể đẩy khó khăn về người khác; ngược lại nhận về mình cái dở, cái khó, cái nặng nề ô uế. Phật Thích Ca Mâu Ni độ người đầu tiên là Kiều Trần Như vốn đời trước đã “lăng trì” mình, để trả ơn.
Học trò có lần hỏi chết là gì, Khổng Tử dạy: “Chưa hiểu cuộc sống làm sao hiểu được cái chết”. Câu này bàn sâu, là một hạn chế. Bàn nghĩa gần là ưu việt. Kinh Phật thường nói về luân hồi kiếp và các cõi thánh cao thanh, tuy điều trọng yếu tu tập phải luôn an trú trong hiện tại. Tu lại tưởng về quá khứ vọng về vị lai dễ lạc vào ma đạo. Người tu Thiền hay Tịnh độ, đích vẫn là giữ tâm tịch tịnh, không phóng tạp niệm. Tạp niệm quá dày quá đậm sẽ tạo nên cảnh giới khiến ta thọ nhận. Chỉ ý niệm thôi, chưa nói biến thành hành động, ý niệm thiện hay bất thiện sẽ hướng cuộc đời về phía đó.
Tận kiếp này ai rồi cũng phải qua con sông rộng, ở đấy không một con đò nào, cũng không ai đủ sức bơi, vấn đề là phải chuẩn bị cái phao. Chọn trong những pháp môn được Phật truyền giảng, xem điều kiện và duyên mình hợp với Mật, Thiền hay Tịnh độ, hiển giáo hay mật giáo, viên giáo hay thượng thừa; từng ngày một bơm khí vào phao; phao căng thì cái chết trở nên nhẹ tựa lông hồng. Đức như “tiền”, nếu luôn sẵn tiền trong túi chẳng ai còn lo dạt về đâu; dĩ nhiên buộc phải rời kiếp này, tiền là rác, Đức mới là giấy thông hành.
Nhuỵ Nguyên