Lý duyên khởi là gì? Quy luật duyên khởi vận hành như thế nào? (Phần 3)
Đức Phật dạy rằng: “Ai thấy được Duyên khởi là thấy Pháp. Ai thấy được Pháp là thấy Ta (Phật)”. Bài viết của tác giả Lê Kim Kha sẽ giúp các Phật tử hiểu về quy luật Duyên khởi, nền tảng cốt lõi của Đạo Phật.
5. Lý Duyên Khởi giải thích về nguồn Gốc Khổ
Trong tất cả những giáo lý Phật giáo, không có vấn đề nào dễ bị ngộ nhận, hiểu lầm bằng nhiều diễn dịch mâu thuẫn và vô lý, hơn là thuyết Duyên Khởi. Trong nhiều trường hợp, người ta đã cố dùng Lý Duyên Khởi được để lý giải sự bắt đầu, sự khởi thủy của tất cả sự vật, và người ta đã ‘thấy’ trong “Vô minh” được xếp hàng như là “nguyên nhân đầu tiên” và bắt đầu từ đó theo dòng thời gian, tất cả sự sống tâm thức và vật chất (danh và sắc) được tiến hóa, tiến triển ra. Mặc dù Đức Phật đã dạy đi dạy lại một cách nhất quán rằng sự khởi thủy của sự sống (sự hiện hữu) là một điều không thể nghĩ bàn, tất cả những suy đoán đó có thể làm người đời điên khùng; và làm sao, với tri thức thế tục, họ có thể thấy được thời điểm nào là lúc chưa có Vô Minh và Dục Vọng.
Đức Phật đã giảng lý Duyên Khởi để làm gì?
Để cho con người thấy được những nguyên nhân & những điều kiện (nhân & duyên) tạo ra Khổ ngay hiện tại và tương lai, liên tục. Chỉ có bằng cách dùng lý Duyên Khởi để biết được nguồn gốc và nguyên nhân của Khổ thì mới hy vọng diệt khổ được. Đức Phật đã thiền quán về sự chết, già và khổ khi Người truy nguyên ngược dòng theo chuỗi sự kiện của vòng Duyên Khởi.
(Công thức truyền thống của vòng Duyên Khởi được trình bày trong phần Chú Giải 1).
(i) Già (Jara) và Chết (Marana) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
Tức là do đâu mà có già và chết?. Già và chết tùy thuộc vào & do tái sinh mà xảy ra. Sau khi một người được sinh ra (jati), già (jara), chết (marana) sẽ theo sau như một trình tự tự nhiên bắt buộc. Điều này diễn ra là vì có một thực tại tột cùng, một chân lý tột cùng, đó là: “Có những bản chất khởi sinh (uppada), tồn tại (thiti) thì có hoại diệt (bhanga)”. Nói cách khác: “Cái gì có sinh là có diệt”. Sau khi khởi sinh, tồn tại và hoại diệt, thì chắc chắn một chu kỳ mới sẽ khởi sinh: khởi sinh là Sinh ra, tồn tại là (tăng trưởng và) Già đi và hoại diệt là Chết. Vì vậy, như ai cũng biết rõ, sau khi sinh ra thì chắc chắn sẽ dẫn đến Già và Chết (Sinh, Lão, Tử không thể tránh được).
Những sự kiện trong những chu kỳ hay vòng đời trên đây là những tác nhân ban đầu của một sự tái sinh mới. Và vì có tái sinh, nên theo sau là có buồn đau (soka), rầu rĩ, than khóc (parideva), đau đớn, đau khổ (dukkha), phiền não (domanassa) và thất vọng, chán chường, bất toại nguyện (upayasa) cũng khởi sinh theo. Năm dạng “khổ” này không phải là những hệ quả đầu tiên (hay hệ quả chính) không thể tránh được của sự tái sinh mới nói trên. Mà chúng là những hệ quả thứ cấp, không phải là hệ quả tất yếu hay chính yếu của nhân tái sinh đó, và chúng có thể khởi sinh hay không khởi sinh tùy thuộc vào những điều kiện (duyên) khác nhau nữa. Năm dạng “khổ” thứ cấp này không có mặt trong những chúng sinh thuộc trời , thần (tức cõi Phạm Thiên, nơi đó không có những dạng khổ ‘thế gian’ như buồn đau (soka), than khóc (parideva), đau đớn (dukkha), phiền não…); và cũng có thể không có mặt trong phôi thai chết trong buồng trứng hay trong một trứng.
(ii) Tái Sinh (Jati) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
Tái sinh tùy thuộc vào & do sự “Trở Thành” (có thể gọi là “Hình Thành” hay “Hiện Thành”) mà có. Quá trình “Trở Thành” hay “hiện hành” bao gồm vào 2 dạng:
(1) Quá Trình do nghiệp – (kamma-bhava: do nghiệp, nghiệp hữu) là mặt chủ động của sự hiện hữu, sự sống; Nghiệp là động lực dẫn dắt tạo ra tái sanh trong các cảnh giới luân hồi. Nghiệp là những hành động có tác ý, từ nghiệp tạo thành sức mạnh của nghiệp hay còn gọi là nghiệp lực.
(2) Quá Trình Tái Sinh – (uppatti-bhava), là mặt thụ động, mặt “nghiệp-quả” của sự hiện hữu, sự sống.Sự “Trở Thành” có nghĩa sự hữu nghiệp, sự mang nghiệp (kamma- bhava), quá trình Nghiệp (Kamma) tạo điều kiện, làm duyên cho sự tái sinh.
Đức Phật đã từng dạy:
(1) Những hành động xấu (nghiệp bất thiện) dẫn đến tái sinh vào những tình trạng hay cảnh giới xấu (khổ đau);
(2) Những hành động tốt (nghiệp thiện) dẫn đến tái sinh vào những tình trạng hay cảnh giới hạnh phúc, về vật chất và tinh thần;
(3) Những hành động điềm tĩnh, bất động (nghiệp bất động) (anenjhabi) sẽ dẫn đến tái sinh vào cảnh giới vô sắc.
Theo Đức Phật, tất cả chúng sinh đều mang nghiệp (kamma) của mình. Mặc dù những hành động tạo tác (tức “Hành”) luôn luôn xuất hiện trong từng hành động, lời nói và ý nghĩ. Trong trường hợp một A-la- hán thì những hành động tạo tác đó không bị đi kèm bởi dục vọng trong mỗi sát-na tạo tác, thúc đẩy, và nó hoàn toàn biến mất, không để lại dấu vết và không còn bị chuyển thành/vào nghiệp (kamma). Vì vậy, không có nghiệp thúc đẩy tái sinh đối với những vị A-la-hán.
Theo nghĩa trên, ta càng hiểu rằng nghiệp-hữu (kamma-bhava) hay sự mang nghiệp chính là điều kiện, là ‘duyên” thúc đẩy, làm ra tái sinh. Trong suốt những chu kỳ hay những vòng luân hồi tái sinh, không có một cái “Tôi” hay “Bản ngã” hay “linh hồn” nào được nhận thấy, ngoại trừ hiện tượng sinh, già, chết tùy theo điều kiện (sinh diệt tùy duyên). (iii) Quá Trình Trở Thành hay nghiệp hữu (Kamma Bhava) tùy thuộc vào nhân gì?
Quá Trình Trở Thành hay Nghiệp Hữu thì tùy thuộc vào & do sự Dính Chấp (Upadana) mà có. Tất cả chúng sinh, ngoại trừ A-la-hán, đều dính mắc, dính chấp vào sự hiện hữu (sự sống) và những dục lạc (khoái lạc giác quan). Có 4 loại Dính Mắc, đó là:
(1) Dính mắc vào dục lạc (kamupadana),
(2) Dính chấp vào quan điểm sai lạc hay tà kiến (ditthupadana),
(3) Dính mắc vào những hủ tục, phong tục, nghi lễ thờ cúng (silabbatupadana), không dẫn đến sự giải thoát hay sự chấm dứt khổ.
(4) Dính chấp vào niềm tin vào một “bản ngã” hay ngã chấp (attupadana).
Sự Dính Chấp không thể làm điều kiện, là duyên trực tiếp cho quá trình tái sinh. Nó chỉ làm điều kiện, làm duyên cho quá trình tạo nghiệp mới, quá trình “trở thành”. Khi một người bị dính chấp vào một điều gì bám chắc hay ăn sâu từ lâu, thì người đó thường hành động cách này hay cách khác để giữ chặt điều đó hay đối tượng đó. Và bằng cách hành động như vậy, quá trình tạo nghiệp mới, tức quá trình “trở thành” hay “hiện thành” đã xảy ra hay đã được thực hiện.
(iv) Sự Dính Chấp (Upadana) tùy thuộc vào nhân gì?
Sự Dính Chấp thì tùy thuộc vào & do Dục Vọng (Tanha) mà có. Có 3 loại dục vọng, đó là: (1) Dục vọng khoái lạc giác quan hay nhục dục,
(2) Dục vọng Được Liên Tục hiện hữu, và
(3) Dục Vọng Vì Không Được Liên Tục hiện hữu
• Loại dục vọng đầu tiên là nhục dục (kama-tanha) được gắn liền với 6 đối tượng của giác quan.
(Loại dục vọng căn nguyên, cơ bản này đều có trong tất cả chúng sinh, làm mê đắm và dính mắc chúng sinh từ vô thủy vô chung. Nó được xem như là lý do để sống, là lẽ sống. Nhưng thật ra chính nó tạo nghiệp mỗi khi (và kéo theo) tái sinh, luân hồi sinh tử. Vì vậy, chỉ cần diệt sạch những dục vọng khoái lạc giác quan này, thì sẽ dừng tái sinh, luân hồi, như những bậc A-la-hán đã làm được. Đó là công thức mục tiêu của Phật Giáo. – ND).
• Dục vọng thứ hai là dục vọng (được liên tục) hiện hữu (bhava- tanha): cũng chính là loại “Nhục dục” thứ nhất, nhưng đi kèm với quan điểm về một “bản ngã”, quan điểm cho rằng có “một linh hồn” thường hằng, bất diệt trong kiếp này và chuyển qua kiếp khác.
(Loại dục vọng này thúc đẩy con người cố tạo nhiều và hưởng thụ nhiều khoái lạc giác quan hay dục lạc trong kiếp này; và rất nhiều ý chí cố tạo được nhiều dục lạc, cảnh giới sung sướng cho cả kiếp sau, theo tư tưởng, ý chí của kiếp này. – ND).
• Và thứ ba là dục vọng vì không được liên tục hiện hữu (vibhava- tanha) trong viễn cảnh sau khi chết: Loại này cũng chứa toàn “Nhục dục” thứ nhất, nhưng đi kèm với quan điểm về sự không hiện hữu, không còn gì, sẽ bị huỷ diệt sau khi chết.
(Loại dục vọng này thúc đẩy con người càng thêm tạo tác, cố sức tạo nhiều và thụ hưởng khoái lạc giác quan hay dục lạc ngay trong kiếp sống này bằng mọi giá, bất chấp đạo lý, bất chấp tội lỗi, bất chấp sự tạo nghiệp, bởi vì những người này cho rằng sau khi chết là hết, làm gì có linh hồn nào, cái “Tôi” nào đi chịu hình phạt hay quả báo cho những tội lỗi ở kiếp này. Trong thực tế, loại người có quan điểm, có tư tưởng này là rất nhiều, điều đó được chứng minh bằng những tội ác lớn xảy ra hàng ngày trong cuộc sống trên khắp nơi của thế giới, chưa kể đến những tội lỗi tàn sát trong quá khứ cổ đại, cận đại và hiện đại –ND).
▪ Như vậy Dục Vọng (tanha) là 6 dạng thèm muốn, tham muốn những đối tượng khoái lạc của 6 giác quan (theo bất kỳ nghĩa nào, tích cực hay tiêu cực, ví dụ mắt thích nhìn cảnh đẹp thiên nhiên lành mạnh hay cảnh đồi trụy) thì đều được gọi chung là ham muốn (dục vọng) khoái lạc giác (nhãn) quan –ND).
(Ví dụ, một người mang dục vọng thứ hai, “dục vọng được liên tục hiện hữu”, tin vào ‘linh hồn’, ‘bản ngã’ kiếp sau, thường mơ đến cảnh giới sung sướng, thường tâm niệm, ao ước thậm chí trở thành con gái hay con trai ở kiếp sau, thì sẽ tạo nghiệp, và như nếu được trợ thêm duyên, có thể sẽ tái sinh vào cảnh giới hay tình trạng như hằng mong ước. Mà đã có tái sinh là có luân hồi và vẫn còn khổ, vẫn chưa chấm dứt khổ -ND). ▪ Dục Vọng (tanha) cơ bản là sự thèm muốn, ham muốn có được, đạt được, lấy được đối tượng để thỏa mãn giác quan, trong khi đó sự dính mắc hay dính chấp khởi sinh hay tăng lên sau khi đã có được đối tượng. (upadana, (HV): chấp thủ).
Tất cả 4 loại Dính Chấp khởi sinh là do kết quả của dục vọng.
─ Sự dính mắc vào dục lạc là khởi sinh từ nhục dục hay dục vọng khoái lạc giác quan.
─ Sự dính chấp vào những quan điểm sai lạc hay tà kiến về “con người” hay về cái “Tôi” hay “bản ngã” là khởi sinh từ sự mê lầm, dính chấp (dục vọng) về cái “Tôi”, về “bản ngã” (hay thân kiến).
─ Sự dính chấp vào những hủ tục, lễ nghi thờ cúng là khởi sinh từ tham muốn (dục vọng) mình, cái “Tôi” hay bản thân của mình được gia hộ tốt hơn, được bảo hộ tốt hơn, bên cạnh sự mê lầm, sai lạc có sẵn về cái “Tôi”. Vì vậy theo quan hệ nhân duyên thì chính dục vọng làm điều kiện để khởi sinh ra sự dính chấp. Hay nói khác, sự dính chấp là tùy thuộc vào & do (nhân) Dục Vọng mà có. Điều này đã rõ ràng.
(v) Dục Vọng (Tanha) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
Dục vọng thì tùy thuộc vào & do Cảm Giác hay Cảm Thọ mà có. Khi có cảm giác dễ chịu, thì sinh ra dục vọng hưởng thụ nó. Thậm chí ngay khi đang có cảm giác đau đớn thì cũng khởi sinh ra dục vọng, bởi vì do cảm giác đau đớn có thể làm khởi sinh dục vọng hay mong muốn nỗi đau sẽ biến mất và sẽ được thay thế bằng những thứ dễ chịu khác hay ít nhất là cảm giác trung dung (không dễ chịu cũng không còn đau đớn). Cảm Giác hay Cảm Thọ trung dung (upekkha vedana) là không dễ chịu (khổ thọ) cũng không khó chịu (lạc thọ), nhưng nó không phải là không có cảm giác hay là một sự vô cảm, mà là một cảm giác dễ chịu rất vi tế theo một chiều là không có cảm giác khó chịu hay đau khổ, đau đớn. (Nói cách khác, đối với lạc thọ thì nó chẳng là gì, nhưng nếu đem so sánh với cảm giác khó chịu hay khổ thọ thì nó chắc chắn sẽ mang lại cảm giác “lạc thọ” theo một nghĩa rất tế nhị: Vì nó vẫn tốt hơn khổ thọ. -ND). (vi) Cảm giác hay Cảm Thọ tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
Cảm Thọ thì tùy thuộc vào & do có Tiếp Xúc (Phassa) mà khởi sinh. Khi có những Đối Tượng của các giác quan (hình sắc nhìn thấy được, âm thanh, mùi hương, mùi vị, chạm xúc và ý nghĩ) và “chạm” với các Giác Quan hay các Căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm) thì sẽ làm khởi sinh 6 loại Thức (thức nhìn thấy, thức nghe, thức ngữi, thức chạm xúc và thức suy nghĩ; hay Hán-Việt: nhãn thức, nhĩ thức, khứu thức, thiệt thức, xúc thức và tâm thức hay ý thức).
Khi kết hợp 3 thứ này (Đối tượng giác quan, Sự va chạm của chúng với giác quan & làm khởi sinh ra Thức), gọi chung là sự “Tiếp Xúc” (Phassa) thì phát sinh ra Cảm giác hay Cảm thọ (Vedana). Tiếp Xúc (phassa) và Cảm thọ (vedana) khởi sinh cùng lúc, ngay khi khởi sinh Thức. Tuy nhiên, Tiếp Xúc (Phassa) được coi là nguyên Nhân và Cảm thọ (vedana) được coi là Quả.
Tương ứng với 6 loại Thức, có 6 loại Tiếp Xúc và 6 loại Cảm Thọ: Cảm giác dễ chịu (HV: lạc thọ), Cảm giác không dễ chịu (HV: khổ thọ) hay trung dung (HV: vô ký thọ), tùy thuộc vào bản chất của những đối tượng của giác quan (trần). Nếu đối tượng là dễ thương, vừa ý, thì khởi sinh cảm giác dễ chịu (lạc thọ), nếu đối tượng là khó ưa, không vừa ý, thì khởi sinh cảm giác khó chịu (khổ thọ). Nếu đối tượng là không vừa ý cũng không khó chịu, thì khởi sinh cảm giác trung dung hay bàng quan (vô ký thọ).Chú thích:
Trong suốt quyển này, vì một số từ Hán Việt (HV) quan trọng đã được dùng quen thuộc trong giới Phật học Việt Nam, nên tùy theo ngữ cảnh câu nói hay diễn đạt vẫn được dùng xen lẫn với từ thuần Việt (V).
Ở đây, bạn đọc cần lưu ý các từ được dùng cùng lúc hay xen lẫn nhau và mang cùng ý nghĩa:
Cảm giác (V) = Cảm thọ (HV)
Cảm giác dễ chịu (V) = Lạc thọ (HV) Cảm giác khó chịu (V) = Khổ thọ (HV)
Cảm giác trung dung (V) = Vô ký thọ (HV) Tiếp Xúc, Xúc Chạm (V) = Xúc (HV)
Giác quan (V) = Căn (HV)
Đối tượng giác quan (V) = Trần (HV)
……..
(viii) Tiếp Xúc (Phassa) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
“Tiếp Xúc” thì tùy thuộc & do “Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc” hay còn gọi là Lục Nhập (HV) (Salayatana), đó là: Mắt và những đối tượng nhìn thấy được, tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và mùi vị, thân và những vật chạm xúc, tâm và đối tượng của tâm. Không có những cơ sở Tiếp Xúc này của những giác quan và những đối tượng trên này thì sẽ không sinh ra Thức đối với những đối tượng bên ngoài (trần) và những đối tượng của tâm.
Xin nói lại, ở đây rõ ràng là quy luật nhân quả, chứ không có một ‘con người’, linh hồn, đấng sáng tạo nào cả. Quy luật tự nhiên bản thân nó là quy luật vận hành một cách tự nhiên.
(viii) Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Salayatana) hay Lục nhập tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
“Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc” thì tùy thuộc vào & do “Yếu tố tinh thần và vật chất”, hay còn gọi là “Danh & Sắc” (Nama-rupa) mà khởi sinh. Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc bao gồm 5 cặp giác quan về vật chất & đối tượng của chúng, cùng với 1 cặp giác quan tâm & đối tượng của tâm (pháp). Hay nói cách khác, Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục Nhập) bao gồm 6 giác quan (Lục Căn) & 6 đối tượng tương ứng của chúng (Lục Trần).
“Tâm” ở đây là danh từ chung đại diện cho 89 hay 101 loại tâm thức (citta) như được giải thích trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). 5 Cơ Sở Tiếp Xúc là thuộc về vật chất hay về Sắc (HV) và có 1 Cơ Sở Tiếp Xúc là tâm & đối tượng của tâm là thuộc về tinh thần hay về Danh (HV).
(ix) Yếu tố tinh thần và vật chất hay Danh và Sắc (Nama-rupa) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
“Danh Sắc” thì tùy thuộc vào & do “Thức” (Vinvanana) mà khởi sinh. Sự khởi sinh ra một thực thể sống bao gồm 2 yếu tố do vật chất và tinh thần (danh và sắc) thì tùy thuộc vào hay dựa vào Thức Tái Sinh, vì nếu không có Thức Tái Sinh, thì sẽ không sinh ra yếu tố vật chất và tinh thần (danh và sắc) trong bào thai (chúng sanh có vú), trứng (loài bò sát, chim, cá) hay trong những loài tự sinh (như loài chúng sinh ở địa ngục, ma (ngạ quỷ), thần, trời phạm thiên). Không có thực thể cái “tôi” hay linh hồn ngoài hiện tượng khởi sinh và biến mất (sanh diệt) liên tục như vậy.
(x) Thức (Vinnana) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
“Thức” thì tùy thuộc vào & do có “Những Hành Động Cố Ý” hay do tâm tạo tác, còn gọi là “Hành” (sankhara) mà khởi sinh. Ở đây, Thức có nghĩa là hàng loạt những thức khác nhau, bao gồm cả thức tái sinh là kết quả của những hành động cố ý hay tạo tác được thực hiện trong kiếp sống trước. Hành là nhân của Thức hay Thức là quả của Hành. Chỗ này rất quan trọng, nhưng rất khó để hiểu ngay những Hành vận hành như thế nào để làm sinh ra thức tái sinh.
Theo Đức Phật, sau khi Thức cuối cùng cùng với tất cả yếu tố vật chất và tinh thần (danh và sắc) chấm dứt ngay khi chết, thì chính nghiệp (kamma) là nhân làm sinh ra “Thức tái sinh” (là quả, vipaka), cùng với những yếu tố vật chất tinh thần (danh và sắc) mới, vốn vẫn còn ô nhiễm. Nếu không có sự hiểu biết này thì dễ dẫn đến sự hiểu lầm hay quan điểm sai lầm, đó là: Sự tin vào sự đầu thai hay sự chuyển dịch của những ‘linh hồn’ (quan điểm về sự tồn tại của ‘linh hồn’ thường hằng) hoặc sự tin vào sự hoàn toàn bị hủy diệt). (Xem thêm chi tiết ở Chương VI,.3).
(xi) hành Động Cố Ý, Tạo Tác hay hành (Sankhara) tùy thuộc vào nhân gì mà khởi sinh?
Hành thì tùy thuộc vào & do có “Vô Minh” (Avijja) mà khởi sinh.
Theo lý giải của “Kinh Tạng” (Suttas), Vô Minh tức là sự không hiểu biết hay thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế.
Theo lý giải của “Vi Diệu Pháp Tạng” (Abhidhamma), thì có 8 đối tượng quan trọng bị che mờ, bị bao phủ bởi “màn đêm” Vô Minh (Avijja), vì thế bản chất thực sự của chúng không được nhìn thấy hay biết rõ. Tám (8) lẽ thật quan trọng bị Vô Minh che mờ đó là gì?, đó là:
1. Tứ Diệu Đế hay bốn Chân lý về Khổ,
2. Nguồn gốc Khổ,
3. Sự chấm dứt Khổ, và
4. Con đường dẫn đến sự chấm dứt Khổ; và
5. Sự không hiểu biết về Quá Khứ,
6. Sự không hiểu biết về Tương Lai,7. Sự không hiểu biết về Quá Khứ & Tương Lai,
8. Sự không hiểu biết về Lý Duyên Khởi.
Những Hành Động Cố Ý, Tạo Tác (hành), dù là tốt hay xấu, đúng đạo lý hay không đúng đạo lý, thì đều có nguồn gốc hay cội rễ từ Vô minh (u mê). Chúng được gọi là những tạo tác hay những sự tạo nghiệp (kamma-formations) và tạo ra những nghiệp nhân hay là nguyên nhân để dẫn đến tái sinh, kéo dài thêm vòng luân hồi sinh tử (samsara). Sankhara (hành) cũng giống như nghiệp hữu hay sự mang nghiệp (kamma-bhava) đã được giải thích ở mục thứ hai của Chương này, tức là mắc xích thứ hai của vòng duyên khởi, theo ý nghĩa thì cả hai đều làm duyên hay điều kiện thúc đẩy quá trình tái sinh. Sự khác nhau duy nhất là Sankhara (hành) là duyên thuộc về quá khứ, trong khi đó Sự mang nghiệp hay “Nghiệp hữu” (kamma- bhava) thì thuộc về ngay hiện tại. (Chú Giải 2).
Bởi vì sự “Vô Minh”, không biết được Nghiệp (kamma) và Nghiệp Quả, người ta làm những hành động bất thiện nhằm mục đích ích kỷ trước mắt. Vì si mê cho rằng dục lạc và những khoái lạc của những tầng thiền (jhana) là những dạng hạnh phúc thật sự, mọi người thực hiện những việc bố thí, cúng dường (dana), giữ giới (sila) và thiền (bhavana) để nhằm mục đích đạt được hạnh phúc trong đời này và đời sau thông qua sự tái sanh để làm người, thiên thần hay trời Phạm thiên. Do vậy, người ta tích lũy nhiều nghiệp (kamma hay “Hành”- sankhara) tốt xấu, thiện và bất thiện do si mê, vô minh mà tạo ra.
Đây là cách cho chúng ta thấy rõ quy luật Duyên Khởi đã giải thích về Diệu Đế về nguồn Gốc Khổ như thế nào. Khi Tứ Diệu Đế đã được hoàn toàn hiểu rõ, Vô minh sẽ tự động bị xóa bỏ. Ánh sáng chân lý sẽ soi rọi cho chúng ta bước vào con đường chánh đạo.
Khi nói về Nguyên nhân của sự Vô Minh, Đức Phật đã dạy rằng nguồn gốc của Vô Minh không dễ dàng tìm thấy hay nhìn thấy được trong những vòng luân hồi sinh tử bất tận từ trong vô thủy.
6. Chiều ngược Lại (hoàn Diệt) Của Vòng Duyên Khởi Giải Thích Sự Chấm Dứt Khổ.
i) Nếu không có Vô Minh, thì không có Hành (những hành động cố ý, tạo tác).
ii) Nếu không có Hành, thì không có Thức.
iii) Nếu không có Thức, thì không có Danh Sắc (những yếu tố vật chất và tinh thần của một thực thể sống).
iv) Nếu không có Danh Sắc, thì không có Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục nhập).
v) Nếu không có Sáu Cơ Sở Tiếp Xúc (Lục nhập), thì không có Tiếp Xúc.
vi) Nếu không có Tiếp Xúc, thì không có Cảm Giác (Cảm Thọ).
vii) Nếu không có Cảm Giác, thì không có Tham Muốn hay Dục Vọng.
viii) Nếu không có Dục Vọng, thì không có Dính Mắc hay Chấp Thủ.
ix) Nếu không có Dính Chấp, thì không có sự Trở Thành hay sự Hiện Thành.
x) Nếu không có hay sự Hiện Thành thì sẽ không có Tái Sinh.
xi) Nếu không có Tái Sinh, thì không có Già, Chết & Khổ Đau. Đây là cách giải thích về Chân lý về Chấm Dứt Khổ bằng lý Duyên Khởi. Khi một người đã hoàn toàn nắm vững về Tứ Diệu Đế, người đó trở thành một A-la-hán (Arahant). Vì một A-la-hán là người đã không còn Vô Minh hay si mê, vòng mắc xích Duyên Khởi, còn được gọi là Vòng Liên Tục Hiện Hữu đã bị chặt đứt và không còn tái sinh, không còn Khổ đau nữa.
Lý duyên khởi là gì? Quy luật duyên khởi vận hành như thế nào? (Phần 4)
Lê Kim Kha