Ai cũng có thể là hóa thân của Bồ tát giữa đời thường
Chùa nghèo, mái lợp tôn, hệ thống tượng thờ cũng ít và khá đơn giản, nhưng vẫn mang lại một cảm giác ấm cúng khi ghé thăm. Tài sản lớn nhất của chùa có lẽ là cây bồ đề cổ thụ, dễ chừng 5-6 người ôm không hết.
Nghe người xưa kể trước đây là khu đất cao nhất làng, chim chóc bay về khá nhiều. Chim ăn quả và để rơi hạt xuống bãi đất này. Cây đủ duyên lành và cứ thế ngậm nắng gió tự lớn lên, nên được người dân lập chùa thờ Phật.
Một ngày nọ, có vị sư già du ngoạn ngang qua, nhìn từ xa bắt gặp cây bồ đề lớn vút cao, cành lá lao xao trong gió như vẫy gọi, thầy tìm đường vào thăm và vãn cảnh chùa. Thầy thương chùa nghèo, nhân dân cầu pháp nên xúc động ôm cây bồ đề và khóc, và quyết định tạm dừng gót du tăng ở lại truyền pháp cho bà con.
Anh bạn tôi kể rằng mỗi buổi sáng, thầy thường rời chùa đi đâu đó không ai biết – và thầy trở về vào lúc cuối chiều với một bao tải đầy những cây dại trên lưng. Hỏi ra mới biết đó là cây thuốc. Thầy đi gom các loài thảo dược mọc hoang trong vùng lại, phơi khô, sao tẩm, làm thuốc chữa bệnh miễn phí cho dân. Những ai đến xin chữa bệnh, sau một thời gian không chỉ thấy sức khỏe dần khá lên, mà tâm tính cũng ít nhiều thay đổi, thấy nhìn cuộc sống tích cực hơn, biết yêu thương gia đình và làng xóm hơn. “Hóa ra thầy không chỉ chữa thân bệnh, mà còn chữa cả tâm bệnh cho mọi người”. – Bạn tôi cười rạng rỡ.
Tôi đem theo những chi tiết thú vị từ câu chuyện kể của anh bạn, đạp xe tìm đến ngôi chùa xóm Thượng vào đúng ngày Rằm Trung thu.
***
Khi tôi tìm được đến cổng chùa cũng là lúc trời vừa chạng vạng tối, bắt gặp 2 chú tiểu đang lúi húi làm đèn ông sao – ngay dưới gốc bồ đề cổ thụ. Tôi mang ít bánh nướng, bánh dẻo đã chuẩn bị sẵn vào lễ Phật, rồi quay ra cùng làm lồng đèn với hai chú.
Qua trò chuyện, tôi được biết chú Pháp Đăng 16 tuổi, quê mãi tận miền Tây. Vì gia đình quá nghèo, lại đông con, không muốn chứng kiến cảnh ba mẹ suốt ngày cãi vã vì mệt mỏi lo cơm áo cho cả 6 miệng ăn, nên chú bỏ nhà, lang bạt ra Hà Nội đánh giày kiếm sống, lấy gầm cầu vỉa hè, công viên làm nhà. Túc tắc với nghề, co kéo chú cũng đủ ăn. Nhưng một bữa tỉnh dậy, thấy toàn bộ đồ nghề và số tiền tích cóp bị kẻ gian trộm mất, chú không biết phải làm sao.
Có lẽ khi cái thiện trong mỗi con người bị tổn thương – nếu không đủ bản lĩnh làm chủ thì sẽ là cái cớ cho cái xấu ác trong lòng trỗi dậy. Chú Pháp Đăng cùng quẫn, tính chuyện lấy đồ của người khác để bù lại với số tiền mình đã bị lấy đi. Chú bị người ta bắt được, đánh cho gần chết. May lúc đó có vị sư già ngang qua, ào tới ôm lấy chú và xin người ta tha cho. Thầy dẫn chú về chùa, lấy lá thuốc đắp lên vết thương. Và chú ở lại luôn với thầy từ đó, đến nay đã gần 2 năm, phụ thầy chăm sóc chùa và làm thuốc cứu dân.
Chú tiểu còn lại tên là Pháp Như, 10 tuổi. Chú Pháp Như có cả bố và mẹ đều bị ung thư, chạy chữa bệnh viện đến kiệt quệ gia sản, bán cả đất cả nhà đi chẳng còn nơi ở. Trong lúc tuyệt vọng, nghe có người mách, mới bồng bế nhau từ Tây Nguyên ra đây xin thầy chữa bệnh. Bệnh quá nặng, lại giai đoạn cuối, thầy cũng không làm gì được, chỉ kịp khai ngộ cho hai người đó sâu hơn về nhân quả, duyên nghiệp. Không biết họ giác ngộ được đến đâu, chỉ biết trong cùng tháng đó, cả hai vợ chồng lần lượt ra đi, nhưng thấy sự thanh thản hiện rõ trên gương mặt. Họ đều đón nhận sự ra đi của mình bằng một nụ cười, và xin gửi gắm con trai của mình cho Tam Bảo.
Khi cuộc trò chuyện giữa tôi và chú Pháp Đăng vừa dứt thì vị sư già trở về cùng gần chục đứa trẻ khác. Từ dịp gặp chú Pháp Đăng gặp nạn giữa phố thì năm nào vị sư già cũng dành cả buổi chiều để đi gom các em nhỏ xa quê, không người thân, lang thang ngoài vỉa hè hoặc đi lượm ve chai, bán hàng rong, hoặc bán báo, đánh giày cùng về chùa để vui đón Trung thu.
Hơn chục đứa trẻ đến từ những miền quê khác nhau, tối nay tụ hội dưới mái chùa nghèo, hào hứng rước đèn, múa ca. Chúng nắm tay nhau và mỉm cười như anh em trong một gia đình. Tôi chợt nhận ra ngôi chùa thực sự là một mái nhà bình yên, tưới tắm cho mỗi đứa trẻ tâm từ mang ánh sáng bậc Như Lai.
***
Khuya, tôi ngồi ngoài sân uống trà cùng sư thầy. Ánh trăng đêm rằm lọt qua vòm lá thưa, rọi xuống trên đỉnh đầu, trên đôi lông mày lốm đốm những sợi bạc của thầy và sáng lên. Và qua những chia sẻ của vị sư già, tôi hiểu được nhiều điều hơn về Đức Phật. Tôi giật mình nhận ra hơn 20 năm qua, tôi đã tạc giữ trong lòng mình một vị Phật phù phép và không có thật. Tôi và bao thế hệ người Việt khác đến chùa là cầu xin đủ thứ, từ tiền tài, công danh, lợi lộc, thậm chí “xui” cả Phật và Bồ tát trừng phạt người này người kia vì những oán thù cá nhân. Những vô minh cứ trượt dài như thế theo những gì phim Tàu dựng lên và các đài truyền hình tưới tẩm, để hôm nay nhận ra một điều thật giản đơn: Đức Phật là một con người biết sống vì số đông những con người.
Nếu nhìn lại cuộc đời tu hành của Đức Phật, chúng ta sẽ nhận ra rằng: Ngài sinh ra ở dưới gốc cây, thành đạo và nhập diệt ở dưới gốc cây. Trong thời Đức Phật thì chưa có khái niệm chùa hay xây chùa. Có thể Ngài không muốn các đệ tử xây dựng chùa to chùa lớn để thờ ngài, vì với các bậc giác ngộ, đâu cũng là chùa, đâu cũng là tịnh xá. Sau này các chùa chiền, tự viện được xây lên nhằm hỗ trợ những người còn đang trên bước đường tu tập, giúp Phật tử có nơi quy hướng, kết nối, sinh hoạt, nhiếp tâm vào đó mà cầu nguyện, sám hối.
Vị sư già chia sẻ: “Đức Phật không có trong những tượng đồng, tượng gỗ chốn thiền môn nào đâu con, vì nếu chỉ ẩn nấp ở đó, chỉ ở trong chùa thì chẳng thể cứu độ được ai. Chỉ khi là một con người cụ thể, dấn thân vào cuộc sống, Ngài mới có thể gặp gỡ và hóa độ từng người. Thế nên, bất kỳ người nào ta và con gặp, trong trái tim của họ có thể phát khởi lòng từ bi, chuyển hóa được cái giận, cái ghét thành bao dung và yêu thương, không muốn làm khổ đau cho người thì cũng đều có thể là hóa thân của Đức Phật cả. Khi chúng ta lễ tượng Phật – là đang mượn cái giả để tìm về cái thật, tìm về vị Phật bên trong của mình”.
Đêm nay, tôi ngước nhìn trăng tròn trên đỉnh trời đêm. Ánh trăng lọt qua mấy vòm lá thưa, rơi xuống trên khuôn mặt. Nhớ lại lời chia sẻ năm xưa, rằng bất cứ người nào tôi gặp mà trong tim họ phát khởi lên tâm từ, muốn được giúp đỡ và mang lại những điều tốt đẹp cho người khác thì đều có thể là hóa thân của một vị Bồ tát giữa đời thường, tôi tự mỉm cười, thở ra một hơi thật dài và thấy lòng nhẹ tênh.
*Bài viết được gửi từ tác giả Lương Đình Khoa; địa chỉ: Thị trấn Văn Giang, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Lương Đình Khoa